Đổi mới và những nhận thức lý luận mới về an sinh xã hội
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã trải qua gần 30 năm (1986 - 2014). Đổi mới là một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện, tạo ra những biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam.
Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết, trong đó có Việt Nam đều tiến hành cải tổ, cải cách và đổi mới. Có một thực tế là, để thích ứng với những biến đổi mau lẹ và phức tạp của thế giới và thời cuộc, hầu hết các nước đều phải tiến hành cải cách để phát triển. Đổi mới của Việt Nam vừa thuận theo xu hướng chung của thế giới là cải cách mô hình, thể chế và chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, cách mạng khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vừa nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc trong sự phát triển nội tại, khi đất nước lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế và xã hội.
Trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn, đổi mới của Việt Nam tuy có bao hàm những cải cách nhưng đổi mới rộng lớn, phức tạp và sâu sắc hơn rất nhiều so với những cải cách, xét về quy mô, tính chất, đặc điểm và những mục tiêu phát triển.
Đổi mới bắt đầu từ một tiền đề nhận thức lý luận nên trước hết phải đổi mới tư duy. Đường lối và quyết sách đổi mới của Việt Nam nhấn mạnh đặc biệt tới đổi mới tư duy kinh tế. Từ kinh tế kế hoạch, hiện vật chuyển sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, áp dụng cơ chế thị trường rồi phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức... Đó là kết quả của đổi mới tư duy trong gần 30 năm nay. Hàng loạt bước chuyển nêu trên cho thấy, dựa trên tiền đề đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức lý luận, xuất phát từ thực tiễn mà đổi mới ở Việt Nam, nổi bật ở lĩnh vực đổi mới kinh tế. Thành tựu nổi bật của đổi mới cũng chính là thành tựu đổi mới kinh tế, làm biến đổi diện mạo kinh tế, dẫn tới tăng trưởng và phát triển, ra khỏi khủng hoảng (1986 - 1996), ra khỏi tình trạng kém phát triển (sau 2006, khi Việt Nam gia nhập WTO).
Đổi mới ở Việt Nam tạo ra bước ngoặt mới, thay đổi cả nhận thức về phát triển lẫn mô hình phát triển, xác lập thể chế, chính sách và cơ chế quản lý mới, nhất là quản lý kinh tế, tạo động lực mới cho phát triển bằng cách giải phóng lực lượng sản xuất và giải phóng mọi tiềm năng của xã hội ra khỏi những rào cản, những sự kìm hãm gây ách tắc, trì trệ để phát triển. Kinh tế hàng hóa - thị trường và vận động dân chủ hóa xã hội, ngay từ đầu đã tỏ rõ vai trò, tác động của những xung lực lớn đối với sự phát triển của đất nước.
Sự vận động của kinh tế thị trường và dân chủ hóa, nhất là dân chủ hóa kinh tế và chính trị - hai lĩnh vực trọng yếu của xã hội đã dẫn tới mở cửa và hội nhập để Việt Nam hợp tác song phương và đa phương với các nước trong cộng đồng quốc tế. Đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhất quán với nguyên tắc hòa bình - hữu nghị - hợp tác - cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, theo phương thức đa phương hóa, đa dạng hóa đã mở ra những khả năng và triển vọng mới của phát triển. Những tác nhân kinh tế và chính trị đó trong đổi mới đã dẫn tới những nhận thức mới và những biến đổi mới về xã hội và con người, về chính sách xã hội và an sinh xã hội. Nhờ có đổi mới, mở cửa và hội nhập, với kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và dân chủ hóa mà con người và các vấn đề xã hội liên quan trực tiếp tới lợi ích, nhu cầu, quyền sống, quyền phát triển của con người được chú trọng thực hiện. Lợi ích và những nhu cầu thường nhật, chính đáng và hợp lý để cá nhân tồn tại và phát triển cũng như giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng theo các chuẩn mực: công bằng, bình đẳng, dân chủ được bảo đảm. Chỉ trong môi trường và điều kiện ấy mà nội lực của từng người và của toàn xã hội mới phát triển. Có nội lực mạnh mới khai thác và tận dụng được ngoại lực từ mở cửa và hội nhập. Bởi thế, công bằng trong phân phối lợi ích không phải là chia đều, bình quân mà là theo kết quả lao động, theo cống hiến, nó tất yếu phải xóa bỏ bình quân, thừa nhận độ chênh lệch và sự vượt trội trong kinh tế thị trường để có động lực phát triển chứ không triệt tiêu động lực. Hơn nữa, nhận thức mới về bản chất công bằng chính là công bằng về cơ hội phát triển trong đó có công bằng về hưởng thụ lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất. Mục tiêu xã hội này hướng vào thực hiện các giá trị nhân văn của phát triển con người cho nên tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội cho con người, vì con người.
Coi trọng các vấn đề xã hội, thực hiện an sinh xã hội đòi hỏi phải bắt đầu từ đâu? Từ chỗ, nhận thức rằng, đầu tư các nguồn lực cho việc giải quyết các vấn đề xã hội và an sinh xã hội là đầu tư cho phát triển. Phát triển con người là mục tiêu đích thực của phát triển xã hội. Kinh tế rất quan trọng, nhưng xét ra nó không phải là cứu cánh, nó không có mục đích tự thân. Xã hội và chính sách xã hội không thể thụ động, theo sau kinh tế, không thể là “phần phụ gia”, “được tính thêm”, “được bớt ra” từ đầu tư kinh tế, coi đầu tư xã hội là đầu tư không sinh lợi, trái lại, phải đặt vấn đề đầu tư cho xã hội và an sinh xã hội là đầu tư trực tiếp để phát triển kinh tế. Không có sự phát triển con người, nhất là lực lượng lao động trực tiếp thì không có bất cứ một dự án phát triển kinh tế - xã hội nào được thực hiện.
Bởi vậy, phát triển kinh tế phải hướng tới mục đích phục vụ con người. Giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là các vấn đề xã hội bức xúc, thực hiện an sinh xã hội cũng đều nhằm phục vụ cuộc sống của người dân, từ cá nhân đến cộng đồng. Như thế, các chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều có cùng mục đích và mục tiêu vì con người và xã hội của những người lao động. Nếu trước đổi mới, do nhận thức không đúng về vai trò lợi ích cá nhân, về đầu tư cho xã hội nên chính sách kinh tế tách rời chính sách xã hội, thường xem nhẹ đầu tư cho xã hội và an sinh xã hội thì trong đổi mới, việc nhận ra tính thống nhất và sự gắn liền chỉnh thể kinh tế với xã hội để chú trọng định hướng xã hội cho phát triển kinh tế, chú trọng những bảo đảm kinh tế cho phát triển xã hội thực sự là một bước tiến lớn về lý luận. Đó là cơ sở lý luận cho việc giải quyết trong thực tiễn các vấn đề xã hội của đời sống con người, từ những vấn đề của tồn tại người như một thực thể sinh học (những nhu cầu, lợi ích thường nhật, tối thiểu) đến những vấn đề của phát triển người như một cá nhân, một chủ thể nhân cách (từ dân sinh đến dân trí, dân quyền và dân chủ), thực hiện hệ giá trị mục tiêu: công bằng và bình đẳng, độc lập, tự do và hạnh phúc. Chất lượng nhân văn của phát triển con người và xã hội được xác định bởi chất lượng giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách xã hội và an sinh xã hội trên cơ sở của những điều kiện, tiền đề kinh tế. Ở đây có mối quan hệ tương tác giữa kinh tế - xã hội và xã hội - kinh tế, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội và chính sách an sinh xã hội.
An sinh xã hội, có thể coi là một hợp phần của hệ thống các vấn đề xã hội, hơn nữa, là hợp phần nổi bật, nổi trội nhất trong hệ thống ấy. Thực hiện được an sinh xã hội là thực hiện được tiền đề của ổn định, thực hiện được điều kiện của phát triển. An sinh xã hội là chỉ báo xác thực nhất bảo đảm ổn định tích cực, lành mạnh và phát triển bền vững mà thước đo nhân văn của một xã hội phát triển bền vững là phát triển bền vững con người. Cắt nghĩa an sinh xã hội một cách trực tiếp và thực chất chính là sự an toàn, độ an toàn của cuộc sống con người. An ninh và an toàn vừa là nội dung lại vừa là điều kiện bảo đảm của an sinh xã hội.
Việc làm, mức sống, môi trường sống (cả môi trường tự nhiên và xã hội), điều kiện lao động đủ sức phòng ngừa tai nạn, rủi ro, được thụ hưởng lợi ích về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin, đời sống văn hóa, tinh thần... đó là những bảo đảm an sinh xã hội cho sự sống, đời sống của con người.
An sinh xã hội cho cá nhân và cộng đồng trong một xã hội đã đi vào kinh tế thị trường với những mặt trái và cả những hệ lụy của nó còn phải tính đến một thực tế, đó là những bảo đảm xã hội cho các đối tượng thua thiệt trong phát triển (những người khuyết tật, những trẻ em mồ côi, những người già cô đơn không nơi nương tựa, những người mắc bệnh hiểm nghèo, những người dân và hộ dân rơi vào cảnh nghèo đói do thiên tai ở những vùng đặc biệt khó khăn hoặc do mức độ phân hóa giàu - nghèo gay gắt mà rơi vào cảnh bần cùng...). Do đó, trong mạng lưới an sinh - xã hội còn phải tính đến những cứu trợ xã hội, trợ giúp xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp... An sinh xã hội ở Việt Nam còn phải tính đến những nạn nhân của chiến tranh với những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại (bom mìn, nạn nhân chất độc da cam…)
Chỉ cần suy nghĩ về một câu hỏi, con người sống như thế nào, đời sống của con người với những lợi ích và nhu cầu thường nhật, tối thiểu để tồn tại và những nhu cầu sẽ tăng lên ra sao để phát triển, để tìm thấy triển vọng trong cuộc sống… thì ta có thể hình dung thấy các vấn đề xã hội và an sinh xã hội là phức tạp đến như thế nào, nhà nước - xã hội và thị trường cùng với sự trợ giúp quốc tế phải phối hợp nỗ lực, phải cộng đồng trách nhiệm, chia sẻ trách nhiệm như thế nào trong việc giải quyết an sinh xã hội vì con người.
Rõ ràng, sự chậm trễ trong nhận thức và giải quyết an sinh xã hội sẽ chẳng những ảnh hưởng tiêu cực tới phát triển kinh tế mà còn có thể dẫn tới bất ổn xã hội, thậm chí tiềm ẩn những mâu thuẫn và xung đột xã hội.
Giải quyết kịp thời, đúng đắn, hợp lý, công bằng các vấn đề xã hội và an sinh xã hội là điều kiện tối cần thiết và quan trọng để giữ vững ổn định, đoàn kết và đồng thuận xã hội, để bảo đảm và thúc đẩy phát triển bền vững. Những nhận thức đó dần từng bước định hình trong lý luận đổi mới của Việt Nam và cũng từng bước được thực hiện trong các chương trình, chính sách quốc gia của Nhà nước và Chính phủ Việt Nam. Hệ mục tiêu của đổi mới thể hiện rất rõ những định hướng phát triển an sinh xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực hiện an sinh xã hội trong điều kiện hiện nay - Những khó khăn, thách thức phải vượt qua
Trong gần 30 năm qua, cùng với những thành tựu đổi mới kinh tế, phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn, đầu tư nguồn lực và đổi mới cơ chế, chính sách để thực hiện an sinh xã hội, chăm lo cải thiện không ngừng cuộc sống của người dân.
Các chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam ở tầm quốc gia đã thu được những kết quả rất tốt đẹp, đã được dư luận quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, nhất là xóa đói giảm nghèo cho nông dân, đặc biệt ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Về việc giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho các cộng đồng dân cư, Việt Nam là một trong những quốc gia đã hoàn thành sớm các Mục tiêu thiên niên kỷ, nhận được những đánh giá tích cực của cộng đồng quốc tế. Dù còn có những hạn chế và bất cập so với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững nhưng kết quả, thành tích mà Việt Nam đạt được về phát triển giáo dục, chăm lo sức khỏe cộng đồng, thực hiện bảo hiểm y tế cho người dân, khám chữa bệnh cho người nghèo, chăm sóc các bà mẹ và trẻ em, cũng như những nỗ lực giải quyết việc làm, cải thiện mức sống và điều kiện sống cho dân cư, cứu trợ xã hội và thực hiện phúc lợi xã hội, quan tâm tới các đối tượng yếu thế… là những minh chứng về những tiến bộ đáng kể thực hiện an sinh xã hội. Tuy nhiên, để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách xã hội và an sinh xã hội hiện nay trong thập kỷ tới, Việt Nam cũng đứng trước rất nhiều khó khăn, trở ngại và thách thức trong điều kiện khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu tác động vào, cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước suy giảm, lạm phát và thất nghiệp gia tăng, đời sống, mức sống người dân giảm sút.
Điều hiển nhiên là muốn giải quyết an sinh xã hội cần không ít nguồn lực vật chất, kinh tế, tài chính, trước hết từ ngân sách nhà nước. Điều kiện đó ở Việt Nam hiện nay không dễ đáp ứng kịp thời, nhanh chóng bởi kinh tế giảm phát, nợ công, nợ xấu đang ở giới hạn đáng lo ngại. Những nỗ lực đột phá vào những điểm nghẽn của phát triển chưa tạo được kết quả cần thiết (1). Việt Nam đang phải đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc kinh tế, khắc phục những gia tăng của phân hóa giàu - nghèo cũng như đang phải đối mặt với vấn nạn tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại và thất thoát lớn nguồn vốn xã hội mà lẽ ra có thể dùng những nguồn lực đó để đầu tư cho an sinh xã hội.
Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới an sinh xã hội.
Nghị quyết đã nêu ra những hạn chế yếu kém trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội và an sinh xã hội mà nổi bật là (2):
- Tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo còn cao. Mức trợ cấp ưu đãi người có công còn thấp.
- Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao và giảm chậm. Vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn thấp. Đời sống của một bộ phận người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn rất khó khăn, chưa bảo đảm được mức tối thiểu dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là về nhà ở và sử dụng nước sạch.
- Chênh lệch các chỉ số về an sinh xã hội giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước còn lớn. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên, Nghị quyết Trung ương 5, khóa XI đã xác định những quan điểm rất cơ bản, có tác dụng và ý nghĩa chỉ đạo thực hiện lâu dài, trong đó an sinh xã hội được nhấn mạnh: “…bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”.
“Chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước,… ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số”. Đặc biệt là, Nghị quyết Trung ương 5, khóa XI đã nhấn mạnh “Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, bảo đảm bền vững, công bằng”. “Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia, đồng thời, tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực và kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội”.(3)
Những quan điểm chỉ đạo nêu trên, Nhà nước sẽ thể chế hóa thành luật và chính sách để thực hiện trong cuộc sống, tập trung vào các nhiệm vụ: việc làm, thu nhập, giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp chung dưới 3% (thành thị dưới 4%), bảo đảm thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng trên 3,5 lần so với 2010, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 1,5 - 2%/năm. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội, khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, đến năm 2020 sẽ có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo đảm đến 2020 sẽ có khoảng 2,5 triệu người được hưởng trợ giúp xã hội, trong đó trên 30% là người cao tuổi. Bảo đảm giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu, hướng trực tiếp vào người nghèo, hộ nghèo. Phấn đấu đến năm 2020, 100% dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó 70% sử dụng nước sạch đạt chuẩn quốc gia. Cùng với những lĩnh vực đó, Nhà nước tăng cường thông tin truyền thông đến người dân nghèo, vùng nghèo, vùng khó khăn. Đến năm 2015, bảo đảm 100% số xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được phủ sóng phát thanh truyền hình, 100% số xã đặc biệt khó khăn có đài truyền thanh xã để đáp ứng nhu cầu văn hóa thông tin của người dân (4).
Đáng lưu ý là, để tăng cường trách nhiệm và đánh giá mức độ tiến triển của việc thực hiện an sinh xã hội vì cuộc sống của người dân và cộng đồng, Nghị quyết của Đảng đã nhấn mạnh, hằng năm phải có Báo cáo quốc gia về an sinh xã hội trước Quốc hội. Đó là những chuyển biến tích cực về nhận thức và nỗ lực đầy trách nhiệm của Đảng và nhân dân trong việc thực hiện an sinh xã hội, nhằm phục vụ tốt hơn cuộc sống của nhân dân, tạo động lực phát triển xã hội.
Trong cuộc chiến tranh giải phóng chống Mỹ xâm lược, Việt Nam đã phải chịu dựng 15 triệu tấn bom, gấp 4 lần số lượng bom đạn đã sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Mỗi người Việt Nam phải hứng chịu số bom đạn gấp 10 lần trọng lượng cơ thể của họ, chưa kể 70 triệu lít chất độc hóa học da cam, đi-ô-xin chết người. Dải đất miền Trung dày đặc bom mìn gây thương vong cho con người hằng ngày, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm nay.
Cải cách thể chế, chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước để bảo đảm ngày một tốt hơn an sinh xã hội
Cùng với những đầu tư về nguồn lực cho an sinh xã hội, chú trọng kết hợp nỗ lực của Nhà nước với xã hội và người dân, tìm kiếm và tận dụng các khả năng hỗ trợ của quốc tế để có thêm nhiều điều kiện thực hiện an sinh xã hội, cần phải đặc biệt đẩy mạnh cải cách thể chế, chính sách cũng như cơ chế quản lý, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực rất quan trọng này. Có mấy điểm nhấn quan trọng cần thực hiện thường xuyên, chú trọng phát hiện và điều chỉnh kịp thời, linh hoạt trước những biến đổi và phát triển an sinh xã hội nhìn từ nhu cầu của dân và khả năng thực tế cung ứng của Nhà nước và xã hội.
- Bổ sung, sửa đổi luật cũ, ban hành luật mới về những lĩnh vực an sinh xã hội cho phù hợp, như luật lao động và việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, chính sách tiền lương, trợ cấp xã hội, ưu đãi xã hội.
- Đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, coi đó là quốc sách, kiểm soát và xử lý lãng phí, thu hồi triệt để cho công quỹ những khoản tiền rất lớn từ tham nhũng để đầu tư và trang trải cho nhu cầu an sinh xã hội. Phải có những chế tài đặc biệt nghiêm ngặt để thực hiện.
- Đề cao minh bạch và trách nhiệm giải trình vừa để ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, vừa để kiểm soát được hiệu quả đầu tư cho an sinh xã hội và người nghèo.
- Quan tâm thường xuyên và thực hiện đầu tư ưu tiên cho an sinh xã hội đối với trẻ em, phụ nữ và người già, nhất là ở nông thôn và vùng đặc biệt khó khăn./
_______________________
(1) Ba điểm nghẽn của phát triển: thể chế, hạ tầng kỹ thuật công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, 2012, tr. 104 - 105
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 108
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 113 - 115.
GS, TS Hoàng Chí Bảo
Hội đồng lý luận Trung ương
(Nguồn: TCCS)