NHỮNG LUẬN ĐIỆU LẠC LÕNG, XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG - AN NINH CỦA VIỆT NAM
Thời
gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế
- xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Chúng ta đã khẳng
định rất rõ và thể hiện mong muốn, quyết tâm trong việc phát triển quan
hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng
lẫn nhau, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; đồng
thời, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn tính chất cơ bản của nền quốc
phòng - an ninh Việt Nam là “hòa bình và tự vệ”.
Tuy
vậy, bất chấp sự thật đó, nhiều cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí, thù
địch, phản động vẫn ra sức tuyên truyền, rêu rao, tung tin thất thiệt,
hòng dẫn dắt dư luận cả trong và ngoài nước hướng vào ý đồ của họ. Họ
cố tình phủ nhận những thành tựu của đất nước, tỏ vẻ quan tâm, lo lắng
khi hiện nay, thế giới có những biến chuyển sâu sắc và khó lường, cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn đã tác động mạnh mẽ đến an ninh của
các quốc gia và quốc tế. Từ đó, họ rêu rao rằng, Việt Nam “không thể”
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bởi theo họ, khả năng và sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh quân sự,
an ninh của Việt Nam hiện nay là “quá yếu” và “lạc hậu”, không đủ sức để
tự bảo vệ. Họ “khuyên” Việt Nam nên “liên minh”, “chọn bên”, dựa vào
nước lớn có thực lực quân sự, an ninh mạnh để nhận được sự bảo trợ, kể
cả cung cấp, trang bị vũ khí; đưa lực lượng quân đội, an ninh đến trợ
giúp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia; rằng “chỉ
có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ
quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc”?!
Ở
một chiều cạnh khác, họ rêu rao rằng đường lối quốc phòng - an ninh
“hòa bình và tự vệ” của Việt Nam rất “mơ hồ”, “không rõ ràng quan điểm”
và “phi thực tế”. Thậm chí, họ nhấn mạnh đây là “đối sách nhu nhược”, là
“hành động tự trói”, không phù hợp với xu thế hiện nay. Đối với cuộc
xung đột Nga - Ukraine, Việt Nam luôn thể hiện quan điểm, lập trường
rõ ràng, xuyên suốt, đó là kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng
thẳng, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm
đạt được giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích và quan ngại của tất cả
các bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế, và điều này được thể hiện qua
những lần Việt Nam bỏ phiếu thông qua các nghị quyết của Đại hội đồng
Liên hợp quốc về tình hình Ukraine. Nhưng một số kẻ lại trắng trợn
xuyên tạc rằng, Việt Nam phản đối sử dụng vũ lực, nhưng không bỏ phiếu
ủng hộ; Việt Nam vì lợi ích mà bỏ qua “công lý và đạo lý”, khiến nhiều
người “phải suy nghĩ lại” về lập trường chọn chính nghĩa của Việt
Nam(!). Cá biệt, có luận điệu rêu rao rằng, Việt Nam đang thể hiện quan
điểm theo kiểu “chung chung”, rằng Việt Nam ngụy tạo về “đứng về lẽ
phải, công lý”... Họ tung tin thất thiệt, suy diễn thiếu căn cứ rằng
Việt Nam, một mặt, nói là tự vệ; mặt khác, lại đang đẩy mạnh các hoạt
động tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, hiện đại hóa lực lượng
quân đội, lực lượng vũ trang với việc trang bị nhiều loại vũ khí để dụng
ý răn đe, đe dọa, chống lại một nước thứ ba. Từ đó, họ quy kết Việt Nam
khơi mào cho cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, tạo nguy cơ bất ổn trong khu vực.
Thực
chất của những luận điệu phiến diện, phản động của các thế lực thù
địch, cơ hội chính trị khi xuyên tạc đường lối quốc phòng - an ninh của
Việt Nam là hòng phủ nhận đường lối quốc phòng - an ninh của Đảng, Nhà
nước ta, với dã tâm muốn phá vỡ nguyên tắc nền quốc phòng - an ninh tự
chủ, tự lực, tự cường của một quốc gia độc lập, có chủ quyền, hòng làm
suy yếu nền quốc phòng - an ninh của Việt Nam, dẫn đến sự lệ thuộc vào
các lực lượng bên ngoài, gây nên những hệ quả xấu tới sức mạnh, chiến
lược bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia
của Việt Nam. Mặt khác, họ mưu toan hướng lái Việt Nam vào tình thế đối
đầu với nước khác để chia rẽ, làm mất lòng tin, phủ nhận truyền thống
yêu chuộng hòa bình, nhân văn, nhân đạo của dân tộc Việt Nam cũng như
thiện chí và sự đóng góp của Việt Nam trong thúc đẩy hòa bình trên thế
giới.
SỰ NHẤT QUÁN VÀ TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC TRONG ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG - AN NINH "HÒA BÌNH TỰ VỆ" CỦA VIỆT NAM
Cho
dù các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị liên tục công
kích, song sự thật vẫn là sự thật, Việt Nam luôn khẳng định sự nhất quán
đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ” và thực hiện một
cách nghiêm túc, có trách nhiệm. Đây là sự thể hiện tầm cao trí tuệ, đúc
kết tài thao lược quân sự, quốc phòng - an ninh của Đảng, Nhà nước, lực
lượng vũ trang nhân dân, phù hợp với thực tiễn đất nước cũng như bối
cảnh quốc tế. Đồng thời, thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong quan điểm
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta; khẳng định sự nhất quán và tầm nhìn chiến
lược nhằm triệt tiêu hoàn toàn mầm mống chiến tranh, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Đây
là những yếu tố hết sức quan trọng để bảo đảm hòa bình thực sự không chỉ
đối với Việt Nam, mà còn đối với các quốc gia khác trên thế giới.
Đối
với Việt Nam, “hòa bình” là sự bình an, ổn định và phát triển, không để
xảy ra xung đột giữa các quốc gia, không có chiến tranh, khủng bố, cướp
bóc; con người được sống một cuộc sống an ninh, an toàn, yên bình và
hạnh phúc. Hơn nữa, “hòa bình” còn là khát vọng, là giá trị thiêng
liêng, là mục tiêu của cả dân tộc Việt Nam. Là quốc gia
đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh tự vệ, chịu nhiều đau thương,
mất mát, khi Tổ quốc bị xâm lăng, hòa bình bị hủy hoại, hơn ai hết,
người Việt Nam thấu hiểu sâu sắc giá trị của hòa bình, mong muốn duy trì
và quyết tâm gìn giữ hòa bình đất nước, quyết tâm bảo vệ độc lập, tự
do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc là
bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ nhân dân, xây dựng môi trường thuận lợi để phát triển,
nhưng phải gắn với bảo vệ hòa bình, và hòa bình được coi là một giá trị thiêng liêng của đất nước”(1).
Vì vậy, Việt Nam luôn mong muốn thế giới, khu vực, mọi quốc gia, dân
tộc đều được hưởng hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc. Đường lối quốc
phòng - an ninh mang tính chất chính nghĩa, hòa bình và tự vệ đã được
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định nhất quán. “Hòa bình” ở đây là
không “mơ hồ, ảo tưởng”, “phi thực tế” như giọng điệu lạc lõng mà các
thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã rêu rao. “Hòa bình”
không chỉ là thông điệp, mà còn là cam kết của Đảng, Nhà nước và nhân
dân Việt Nam gửi đến các quốc gia trên thế giới, với phương châm “chú
trọng an ninh, an toàn là một trong những yếu tố hàng đầu trong cuộc
sống của người dân”(2), đồng thời, “giải quyết các tranh chấp
bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển”(3) và “không tham gia liên minh quân sự;
không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt
căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”(4).
Điều đó càng thể hiện sự yêu chuộng hòa bình, nhân văn, nhân đạo và
thiện chí của Việt Nam. Đường lối đó không chỉ góp phần xây dựng, củng
cố niềm tin, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất
nước, mà còn đập tan mọi âm mưu, hành động chống phá, xuyên tạc của các
thế lực thù địch, phản động.
“Tự
vệ” trong đường lối quốc phòng - an ninh của Việt Nam là “kiên quyết
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch”, “có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ
sớm, từ xa”(5), “nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh”(6).
Mục tiêu xuyên suốt của đường lối quốc phòng - an ninh Việt Nam là “bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn
hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị,
an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương,
an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”(7). Việt Nam cam kết và đã thể hiện trách nhiệm, nghĩa
vụ quốc tế cao cả, đóng góp cho hòa bình, thịnh vượng, hợp tác phát
triển chung của khu vực và thế giới bằng những hành động cụ thể, thiết
thực với phương châm “thêm bạn, bớt thù”. Điều đó cho thấy, sự thật hoàn
toàn trái ngược với luận điệu rêu rao, xuyên tạc của các thế lực thù
địch, phản động.
Trong
thời gian qua, Việt Nam chủ trương “xây dựng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số
quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ
bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc,
phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”(8), theo đó hiện đại
hóa vũ khí, trang bị, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng để bảo vệ Tổ
quốc đúng như tinh thần của đường lối quốc phòng “bốn không” của Việt
Nam, không nhằm dụng ý răn đe sử dụng vũ lực hay sử dụng vũ lực chống
lại nước khác. Mặt khác, Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng - an
ninh không đơn thuần là mua sắm, sản xuất, hiện đại hóa vũ khí trang bị,
mà còn nâng cao sức mạnh quốc phòng - an ninh trên nhiều phương diện;
xây dựng tiềm lực quốc phòng - an ninh theo chiến lược thống nhất, phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khả năng tác chiến
và trình độ, năng lực của lực lượng vũ trang cách mạng. Trước các cuộc
xung đột, đối đầu diễn ra trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam luôn
lên án, phản đối các hành động gây hấn, tạo cớ, xung đột, chạy đua vũ
trang, với quan điểm không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tránh
những va chạm không cần thiết, không để các đối tượng nước ngoài khiêu
khích, kích động, thỏa hiệp xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc hoặc lôi
kéo, khống chế, gây sức ép với nước khác phát động chiến tranh; kiên
quyết đấu tranh, kiên trì giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp
hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, dù Việt Nam chủ
trương không đe dọa hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ
quốc tế, nhưng Việt Nam sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động
xâm lược, phá hoại an ninh quốc gia với phương châm “nếu đất nước có
chiến tranh, chúng ta buộc lòng phải cầm súng thì cũng là vì hòa bình”(9).
Như
vậy có thể khẳng định, “hòa bình và tự vệ” là quan điểm nhất quán,
xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong đường lối quốc phòng - an
ninh; cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với
các vấn đề an ninh khu vực và thế giới, gắn với thực tiễn cùng những
thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt về quốc phòng - an ninh, đặc
biệt là trong bối cảnh sự tranh giành ảnh hưởng, cạnh tranh chiến lược
ngày càng sâu sắc, các hoạt động tập hợp lực lượng giữa các nước lớn
theo xu hướng phân cực và tối đa hóa quyền lực tiếp tục được đẩy mạnh,
nhiều quốc gia đã bị cuốn vào vòng xoáy, nhất là các nước vừa và nhỏ
đang chịu tác động của lực “kéo - đẩy” ngày càng mạnh từ cuộc cạnh tranh
này. Do vậy, để giữ vững độc lập, tự chủ, vừa giữ được mối quan hệ, vừa
tránh bị cuốn vào “cuộc chơi” giữa các nước lớn, đòi hỏi sự xử lý hài
hòa, cân bằng mối quan hệ nước lớn trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia -
dân tộc. Điều đó càng cho thấy tầm nhìn chiến lược và sự đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta trong đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự
vệ”. Đề cập đến vấn đề này, nhiều học giả, chuyên gia nước ngoài đã
đánh giá cao về đường lối quốc phòng - an ninh của Việt Nam. Tiến sĩ
Olli Pekka Suorsa thuộc Trường Nghiên cứu quốc
tế S. Rajaratnam, Singapore (RSIS) nhận định: Chính sách “bốn không” của
Việt Nam tăng thêm sự minh bạch và giúp xây dựng lòng tin trong khu vực
và quốc tế. Còn theo Tiến sĩ Collin Koh Swee Lean,
Việt Nam mong muốn thể hiện chính sách quốc phòng hòa bình, không chỉ
giúp khẳng định lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam, mà còn cho thấy
Việt Nam là một đối tác có tinh thần xây dựng đối với an ninh khu vực và
quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam gia tăng hợp tác quốc phòng với các nước(10).
Thực
tiễn cho thấy, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đắn đường lối quốc
phòng - an ninh đã đề ra. Việt Nam đã và đang thực hiện những hành động
thiết thực và cụ thể để xây dựng môi trường hòa bình không chỉ cho đất
nước Việt Nam, mà còn đối với khu vực và thế giới. Đường lối quốc phòng -
an ninh mà Việt Nam đang thực hiện là nhằm bảo vệ đất nước, giữ nước
“từ sớm, từ xa”, “từ khi nước chưa nguy”, sẵn sàng chống chiến tranh xâm
lược, vì hòa bình, an ninh, an toàn và phát triển. Việt Nam tăng cường
tiềm lực quốc phòng - an ninh cũng chính là yếu tố để tự vệ, không ngoài
mục đích giữ gìn hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước,
đồng thời góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Trong
quan hệ đối ngoại, Việt Nam luôn kiên định đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, bình đẳng, cùng có
lợi; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ; là bạn, là đối tác tin cậy và
là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Minh
chứng rõ nét nhất là việc Việt Nam đã cử sĩ quan liên lạc công tác ở
Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và cử lực lượng tham gia gìn
giữ hòa bình ở Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi... Đối với Việt Nam, hòa
bình, ổn định và phát triển không tách rời hòa bình của khu vực và thế
giới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “giữ gìn hòa bình thế giới
tức là giữ gìn lợi ích của nước ta”(11). Trước sự đối đầu
giữa các nước, nhất là các nước lớn, Việt Nam không đứng về bên nào,
Việt Nam đứng về lẽ phải và chính nghĩa, Việt Nam tuân thủ Hiến chương
Liên hợp quốc và những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đối với
Việt Nam, việc sử dụng vũ lực và liên minh quân sự không phải là phương thức tối ưu trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trong
giải quyết những bất đồng, Việt Nam luôn thực hiện hiệu quả đấu tranh
hòa bình, trong đó sử dụng tổng hợp các biện pháp, như đấu tranh chính
trị, đấu tranh pháp lý, đấu tranh bằng phương tiện truyền thông và dư
luận xã hội trong nước cũng như quốc tế, đấu tranh bằng biện pháp hòa
bình ngoài thực địa... Song song với các biện pháp đấu tranh hòa bình,
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn chủ động đề ra kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ
sớm, từ xa”; chủ động nhận diện, ngăn ngừa, triệt tiêu những nhân tố bất
lợi, tiềm ẩn nguy cơ trở thành xung đột. Cùng với đó, các lực lượng vũ
trang luôn đề cao cảnh giác, không để bị bất ngờ, thụ động; nhanh chóng,
kịp thời phát hiện mọi âm mưu của nước ngoài đe dọa sử dụng vũ lực và
sử dụng vũ lực xâm phạm chủ quyền, an ninh đất nước. Nếu điều đó xảy ra
thì Việt Nam sẽ sử dụng quyền tự vệ chính đáng của mình bằng tất cả sức
mạnh của một dân tộc yêu chuộng hòa bình kết hợp sức mạnh của thời đại
để đánh bại mọi âm mưu, quy mô, hình thái chiến tranh từ kẻ thù, bảo vệ
vững chắc chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Chính nhờ đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ” mà Việt Nam, một mặt, tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế; mặt khác,
vẫn kiên định không tham gia liên minh quân sự hay liên kết với quốc
gia này chống quốc gia khác. Hiện tại, Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng để
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền
văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội
trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, không để nảy sinh xung đột và xảy ra chiến
tranh. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam “phủ sóng” tới 189 trong tổng số
200 quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược
với 17 nước, cùng 13 nước đối tác toàn diện; là nước duy nhất tại khu
vực Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện với tất cả năm nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc và các nước lớn(12), góp phần định vị vững chắc
hơn vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn trong bối cảnh
cục diện khu vực, thế giới có nhiều biến đổi; có quan hệ đặc biệt với
Lào, quan hệ hợp tác toàn diện với Campuchia; xây dựng quan hệ đối tác
chiến lược với những nước có vai trò quan trọng ở các khu vực khác, như
châu Phi, Mỹ La-tinh... Có thể nói, đây là điều chưa từng có tiền lệ
với Việt Nam; là cơ hội thuận lợi để Việt Nam ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ
xung đột, chiến tranh, duy trì hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế.
Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng
Bộ Quốc phòng thăm Lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc của Việt Nam
tại Phái bộ UNISFA (khu vực Abyei). (Ảnh: Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam)
TIẾP TỤC KIÊN ĐỊNH, KIÊN TRÌ ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG - AN NINH "HÒA BÌNH TỰ VỆ" TRONG BỐI CẢNH MỚI
Từ
thực tiễn gần 40 năm đổi mới, trước tình hình thế giới, khu vực thường
xuyên có những biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc đã và đang đặt ra những thách thức mới. Vì vậy, kiên định,
kiên trì đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ” trong bối
cảnh mới là vấn đề hết sức quan trọng, cần tiếp tục được quán triệt và
tổ chức thực hiện nghiêm túc. Muốn vậy, thời gian tới cần thực hiện tốt
một số biện pháp sau:
Một
là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đường lối quốc phòng -
an ninh “hòa bình và tự vệ”, tạo sự thống nhất cao nhận thức và hành
động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đây
là biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm củng cố vững chắc lòng tin vào sự
lãnh đạo, chỉ đạo và những quyết sách của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung
ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an trong giải
quyết các tình huống xảy ra. Thực hiện giải pháp này, các cấp, các
ngành, các lực lượng cần đa dạng những hình thức, biện pháp tuyên
truyền, giáo dục; mở rộng đối tượng tham gia, chú trọng luận giải rõ vì
sao phải gắn kiên định với kiên trì đường lối quốc phòng - an ninh “hòa
bình và tự vệ”. Chống tư tưởng chần chừ, do dự hoặc nóng vội, chủ quan,
thiếu cân nhắc, tính toán, dẫn đến những ứng xử sai lầm, gây hậu quả
nghiêm trọng.
Hai là, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược. Công
tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược có vai trò đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ diễn
biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định của tình hình thế
giới, khu vực, trong nước, các thách thức an ninh truyền thống và an
ninh phi truyền thống nảy sinh, sự gia tăng chống phá của các thế lực
thù địch, phản động,... công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược
cần quán triệt sâu sắc quan điểm Đại hội XIII của Đảng và Đại hội đại
biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Đại hội đại biểu Đảng bộ Công an Trung
ương lần thứ VII, đó là: “Nâng cao năng lực dự báo chiến lược; giữ vững
thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình
huống”(13). Việc nghiên cứu, dự báo phải hướng vào tư duy,
phân tích những động thái, biểu hiện mang tính “bất thường” của các nước
có liên quan, nhất là những điều chỉnh về chiến lược quốc phòng - an
ninh, đối ngoại và sự thay đổi bố trí lực lượng của các nước lớn, từ đó
dự kiến những “kịch bản”, phương án đối phó chính xác, kịp thời. Đồng
thời, cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, Bộ
Công an, Bộ Ngoại giao, các lực lượng liên quan trong nước và quốc tế để
nắm bắt, thu thập, cung cấp, trao đổi thông tin, trên cơ sở đó nghiên
cứu, dự báo và tham mưu kịp thời, chính xác. Chú trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ làm công tác nghiên cứu chiến lược bảo đảm đủ năng lực khai thác,
phân tích và xử lý thông tin; kết hợp nâng cấp với đầu tư mua sắm bảo
đảm cơ sở vật chất, trang bị, phương tiện phục vụ công tác nghiên cứu,
dự báo, tham mưu chiến lược.
Ba là, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong thực hiện đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và tự vệ”. Lực lượng vũ trang giữ
vai trò nòng cốt để vừa bảo vệ Tổ quốc, vừa giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù
địch, phản động. Vì thế, cần phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân, của quân đội nhân dân và công
an nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ được giao, thường xuyên nêu cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường
khả năng phòng thủ, giữ vững môi trường an ninh, an toàn và duy trì cơ
quan, đơn vị sẵn sàng chiến đấu cao; chủ động nghiên cứu, nắm vững, đánh
giá, dự báo chính xác các tình huống chiến lược, có phương án xử lý kịp
thời, hiệu quả, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc; đẩy mạnh công tác đối ngoại quốc
phòng - an ninh, xây dựng lòng tin chiến lược, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, an ninh, an toàn, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, nhất là
ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp về tôn giáo, dân tộc, các mục tiêu,
tuyến, lĩnh vực, địa bàn trọng yếu về quốc phòng - an ninh, “xây dựng và
phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và
nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng
toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”(14).
Bốn
là, tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh, đối ngoại, góp phần nâng
cao thế và lực để thực hiện đường lối quốc phòng - an ninh “hòa bình và
tự vệ”. Hội nhập về quốc phòng -
an ninh, đối ngoại là quan điểm nhất quán của Đảng ta và đã trở thành
một bộ phận quan trọng trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước.
Vì vậy, cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị
quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và các nghị
quyết có liên quan; tăng cường hội nhập quốc tế về quốc phòng - an ninh,
đối ngoại, phát huy các cơ chế hợp tác song phương, đa phương, xây dựng
lòng tin chiến lược, phát huy hiệu quả sự đồng thuận của các quốc gia
trong Cộng đồng ASEAN, tăng cường mối quan hệ với các nước trên thế
giới. Hội nhập về quốc phòng - an ninh, đối ngoại cần gắn kết chặt chẽ
với hội nhập về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, tạo nên sức mạnh
tổng hợp bảo vệ Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ và đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế. Đây
là vấn đề có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng của Đảng ta,
nhất là trong bối cảnh hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục
nhấn mạnh: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối
tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế”(15). Vì vậy trong thời gian tới, các cấp, các ngành
cần quán triệt và tổ chức thực hiện hiệu quả hơn nữa Nghị quyết; tăng
cường hợp tác tạo thế đan cài lợi ích với các nước, nhất là các nước
lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu
vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc.
“Hòa
bình và tự vệ” trong đường lối quốc phòng - an ninh của Việt Nam là
quan điểm nhất quán, thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự đúng đắn của
Đảng, Nhà nước ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trước tình
hình mới. Nhận thức đúng đắn về quan điểm này là cơ sở để phản bác, đập
tan các luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ đường lối quốc
phòng - an ninh của Đảng, Nhà nước ta, góp phần quan trọng tạo sự thống
nhất ý chí và hành động của cả hệ thống chính trị và nhân dân, thực hiện
hiệu quả, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp quốc gia, vận dụng sáng
tạo, linh hoạt trong thực tiễn bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh, mạnh, bền vững
theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.
TS. Trung tá TRƯƠNG VĂN KHANH
Trường Cao đẳng An ninh nhân dân I
____________________________
(1) Nguyễn Phú Trọng: Một
số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2023, tr.419.
(2) (3) (5) (6) (7) (8) (13) (14) (15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.156, 157, 156, 156-157, 156, 157-158, 159, 157, 162.
(4) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2019, tr.25.
(9) (12) Xem: Phan Trọng Hào: Chính sách quốc phòng “Bốn không” của Đảng, Nhà nước ta, Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 11/12/2021.
(10) Xem: Việt Anh: Chuyên gia nói về chính sách quốc phòng ‘bốn không’ của Việt Nam, Trang thông tin điện tử VnExpress, ngày 21/12/2019.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.8, tr.273.
(Nguồn: TC Cộng sản)