KINH TẾ SỐ - XU THẾ PHÁT TRIỂN TẤT YẾU
Hòa
cùng xu thế phát triển của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đang
đẩy mạnh phát triển kinh tế số, xem đây là bước “bứt phá” trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thực tiễn cho thấy, cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đã mở ra nhiều cơ hội, song cũng đặt ra
không ít thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang
tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã
hội. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các
ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ, xem đây là
tiền đề, động lực quan trọng để chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư đã xác định: Phát triển kinh tế số là trụ cột, nhiệm vụ trọng tâm,
chiến lược trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia những năm tiếp theo
và đề ra mục tiêu vào năm 2025 kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm 20% tổng sản
phẩm quốc nội và tăng lên 30% vào năm 2030.
Bản
chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là dựa trên cách mạng kỹ
thuật số. Vì vậy, kinh tế số vừa là đặc trưng, vừa là xu thế phát triển
tất yếu của các quốc gia. Về khái niệm, tuy có nhiều cách tiếp cận khác
nhau, song đa số đều thống nhất rằng, kinh tế số là nền kinh tế tiến
bộ, trong đó các mối quan hệ, hoạt động kinh tế, tài chính… trong hệ
thống mạng lưới sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ trên thị trường toàn cầu được thực hiện trên nền tảng khoa học -
công nghệ hiện đại. Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 14/1/2020 của Thủ tướng
Chính phủ về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đã
khẳng định: Dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới mà cốt lõi là
công nghệ số (trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám
mây, internet vạn vật...), chuyển đổi số đang tạo ra không gian phát
triển mới - kinh tế số, xã hội số, chính phủ điện tử. Đặc biệt, chuyển
đổi số mở ra cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển đột phá, nhanh chóng
bắt kịp các nước phát triển đang bắt đầu quá trình chuyển đổi số.
Từ
kinh nghiệm của một số quốc gia có nền kinh tế số phát triển, để đáp
ứng nhu cầu xây dựng kinh tế số, chuyển đổi số quốc gia, dự báo đến năm
2030, Việt Nam sẽ cần ít nhất 100.000 doanh nghiệp công nghệ số để tiên
phong, tạo đột phá trong thực hiện chiến lược “Make in Viet Nam” (sản
xuất tại Việt Nam) với hàm ý “doanh nghiệp Việt Nam phấn đấu từng bước
làm chủ về công nghệ, chủ động thiết kế, chế tạo các sản phẩm, chủ động
trong sáng tạo các dịch vụ, giải pháp, mô hình kinh doanh mới"(2).
Những doanh nghiệp công nghệ số của Việt Nam sẽ góp phần thực hiện sứ
mệnh đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển có nền kinh
tế phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, với mục tiêu trở thành nước
phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
NHỮNG KẾT QUẢ TÍCH CỰC TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ Ở VIỆT NAM
Năm
2021, theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á - Tiếng gầm thập kỷ XX:
Thập kỷ kỹ thuật số Đông Nam Á”, nền kinh tế số Việt Nam có trị giá
khoảng 21 tỷ USD, cao gấp 7 lần so với năm 2015 và dự đoán đạt 220 tỷ
USD tổng giá trị hàng hóa (GMV) vào năm 2030, đứng thứ hai trong khu vực
chỉ sau Indonesia. Trước ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, Việt Nam vẫn
là trung tâm đổi mới hấp dẫn trong khu vực và trên thế giới với hoạt
động thương mại, đầu tư tăng vọt, đạt mức cao kỷ lục với 1,37 tỷ USD,
tập trung vào các lĩnh vực thương mại điện tử, tài chính, sức khỏe và
giáo dục…
Hiện
nay, trên 50% các bộ, ngành, địa phương trong cả nước đã xây dựng và
triển khai các chương trình, đề án, kế hoạch về chuyển đổi số. Nhiều
doanh nghiệp công nghệ Việt Nam đã làm chủ các công nghệ “lõi”, phát
triển khoảng 40 nền tảng “Make in Viet Nam”. Những kế hoạch, chiến lược
truyền thông, xúc tiến thương mại trên không gian số đã hỗ trợ việc tiêu
thụ hàng hóa nông sản của người dân, địa phương, doanh nghiệp; thu hút
nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường;
củng cố mối quan hệ hợp tác với những đối tác trên toàn thế giới, giảm
thiểu chi phí xúc tiến thương mại. Năm 2020, Bộ Công Thương và chính
quyền các cấp đã tổ chức trên 500 hội nghị xúc tiến thương mại quốc tế
đa quốc gia, trên 1 triệu phiên giao dịch với những đối tác quốc tế bằng
cả hai hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Áp
dụng khoa học - công nghệ hiện đại đã giúp cho lĩnh vực thương mại điện
tử có nhiều chuyển biến tích cực. Trong 6 tháng đầu năm 2021, Việt Nam
có thêm 8 triệu người tiêu dùng mới trên nền tảng kỹ thuật số; nhiều cá
nhân và doanh nghiệp áp dụng các dịch vụ internet, công nghệ để mua bán
sản phẩm, dịch vụ. Trong đó, có trên 95% doanh nghiệp kỹ thuật số chấp
nhận thanh toán qua internet, 79% sử dụng hình thức chuyển tiền kỹ thuật
số và 67% chấp nhận cho vay trên internet… Mỗi doanh nghiệp sử dụng
trung bình 2 nền tảng số để đáp ứng nhu cầu khách hàng(3).
Ngoài ra, trong lĩnh vực y tế, mạng lưới khám, chữa bệnh trực tuyến đã
kết nối thêm 1.000 cơ sở y tế khám chữa bệnh từ xa, góp phần thu hẹp
khoảng cách y tế giữa các vùng, miền, giữa tuyến Trung ương và địa
phương; nhờ vậy, tỷ lệ chuyển tuyến giảm xuống dưới 10%, giúp tiết kiệm
hàng nghìn tỷ đồng và giảm tải cho hệ thống y tế(4).
Việc
áp dụng khoa học - công nghệ vào quản lý giảng dạy và học tập đã giúp
lĩnh vực giáo dục - đào tạo có nhiều khởi sắc, chất lượng đào tạo được
nâng cao, đặc biệt là quy mô giáo dục được mở rộng đến những khu vực khó
khăn, vùng sâu vùng xa. Một trong những kết quả đáng tự hào và cần được
ghi nhận chính là tỷ lệ học sinh trung học phổ thông được học trực
tuyến chiếm 79,7%, cao hơn 67,5% so với mức trung bình chung của các
nước thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Giảng dạy
và trao đổi bằng hình thức trực tuyến đã nâng cao sự tương tác giữa
người dạy và người học, trở thành hoạt động cần thiết, mang lại nhiều sự
thuận tiện, như giảm thời gian đi lại, tra cứu tài liệu, tăng khả năng
tự học, tự đọc... Cũng qua việc áp dụng công nghệ số vào giảng dạy,
trình độ sử dụng công nghệ thông tin của người dạy và người học đều được
nâng cao - đây là tín hiệu tốt, bảo đảm nguồn nhân lực tương lai sẽ nắm
được công nghệ hiện đại, từ nền tảng này, nền kinh tế số quốc gia sẽ
càng được phát triển và hội nhập nhanh hơn với thế giới.
NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI, THỰC HIỆN
Thứ nhất,
nhận thức của người dân và một bộ phận cán bộ quản lý nhà nước về lợi
ích cũng như thời cơ và thách thức của kinh tế số đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội còn chưa đồng đều ở các cấp, các ngành. Vì vậy, việc
đồng bộ cơ sở dữ liệu về kinh tế số còn manh mún và phân tán, chưa có sự
kết nối, liên thông giữa các bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, môi
trường pháp lý và thể chế phát triển kinh tế số còn yếu, chưa đồng bộ,
nên chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển kinh tế số. Điển hình,
mặc dù khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng, nhưng với sự bùng
phát dịch bệnh COVID-19, sự phát triển của kinh tế số đã tạo ra những
lúng túng nhất định cho các cơ quan quản lý nhà nước trong một số vấn
đề, như: Quản lý và thu thuế đối với các hoạt động thương mại trực
tuyến; bảo đảm quyền lợi cho người lao động và người tiêu dùng qua
thương mại điện tử; xử lý, giải quyết những tranh chấp, xung đột về hoạt
động, lợi ích của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh doanh, thương
mại và dân sự trên môi trường số…
Thứ ba, sự
cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp công nghệ số nước ngoài với
tiềm lực mạnh, tạo ra những sản phẩm sáng tạo và hàm lượng công nghệ cao
đang là thách thức lớn với các doanh nghiệp trong nước. Trong khi khả
năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp trong nước còn hạn chế do quy mô
của đa số doanh nghiệp Việt Nam là vừa và nhỏ, thiếu vốn và trình độ
công nghệ thấp.
Thứ tư, thói
quen mua sắm truyền thống, tâm lý, thị hiếu tiêu dùng tiền mặt của đại
đa số người tiêu dùng ảnh hưởng lớn đến quá trình chuyển đổi số của
doanh nghiệp. Đặc biệt, hành vi kinh doanh và thói quen tiêu dùng giữa
người dân thành thị và khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn khoảng cách lớn, gây ra những khó
khăn nhất định để các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số đồng bộ.
Hoàn thiện hệ thống hạ tầng thanh toán số song song với việc thống
nhất, đồng bộ phương thức thanh toán không dùng tiền mặt để giao dịch
trên toàn quốc. (Nguồn: phunuvietnam.vn)
Thứ năm, nguồn
nhân lực, nhất là nhân lực công nghệ thông tin còn thiếu, yếu cả về
lượng và chất. Việt Nam hiện đang thiếu các kỹ sư công nghệ có trình độ
cao và năng lực quản lý có thể đáp ứng nhu cầu phát triển của các doanh
nghiệp công nghệ hiện nay và trong tương lai(5).
Theo Công ty dịch vụ việc làm trực tuyến VietnamWorks, ước tính hằng
năm, Việt Nam thiếu khoảng 78.000 nhân viên công nghệ thông tin và tính
đến năm 2020 thiếu khoảng 500.000 nhân viên công nghệ thông tin, nghĩa
là chỉ đáp ứng được 22% nhu cầu thị trường(6).
Thứ sáu,
an ninh mạng, bảo mật, an toàn thông tin ngày càng gặp khó khăn. Kinh
tế số dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, internet chứa đựng nguy cơ
lớn về bảo mật, an toàn thông tin, tài chính và tính riêng tư của dữ
liệu, của các chủ thể kinh tế số. Trong quý I/2021, Cục An toàn thông
tin, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ghi nhận 1.271 cuộc tấn công mạng
gây ra sự cố vào các hệ thống thông tin, trong đó có 623 cuộc tấn công
Malware (phát tán các chương trình hoặc mã độc có khả năng cản trở hoạt
động bình thường của hệ thống), 449 cuộc tấn công Phishing (giả mạo các
tổ chức uy tín như ngân hàng, trang web giao dịch trực tuyến hay công ty
thẻ tín dụng) và 199 cuộc tấn công Deface (bẻ khóa hệ thống và truy cập
máy chủ web nhằm thay đổi giao diện và nội dung web)(7).
ĐẨY MẠNH CHUYỂN ĐỔI SỐ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ TRONG THỜI GIAN TỚI
Quán
triệt quan điểm “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số
trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”(8) và
để thực hiện có kết quả các chủ trương, nhiệm vụ về chuyển đổi số, phát
triển kinh tế số trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung
thực hiện đồng bộ một số giải pháp:
Một là,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội
về chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số. Cần có sự quan tâm sâu
sắc của chính quyền các cấp trong vấn đề nâng cao trình độ nhận thức của
xã hội về chuyển đổi số. Tăng cường, đổi mới phương thức tuyên truyền
qua các phương tiện truyền thông đại chúng, các phương tiện truyền thông
xã hội. Xây dựng các kế hoạch cụ thể, quy mô lớn để phổ cập kiến thức
về chuyển đổi số đến mọi người dân.
Hai là,
bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện thể chế, tạo khuôn khổ pháp luật về chuyển
đổi số, phát triển nền kinh tế số. Các cơ quan quản lý của Nhà nước cần
thường xuyên cập nhật, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy chế, văn
bản pháp luật về khoa học -công nghệ số. Đồng thời, cần có những chính
sách hỗ trợ những mô hình kinh doanh, chiến dịch quảng bá, khuyến khích
phát triển dịch vụ, dòng sản phẩm, công nghệ số mang tính sáng tạo, đổi
mới… Về phía doanh nghiệp, cần tập trung xây dựng kế hoạch, chiến lược
kinh doanh hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của công nghệ số, thúc đẩy
phát triển sáng tạo những dòng sản phẩm, dịch vụ mới…
Ba là, cần
chú trọng hơn nữa công tác an ninh mạng, tăng cường bảo mật, an toàn
thông tin. Vấn đề bảo mật thông tin cá nhân cần được pháp luật quy định
rõ ràng với những chính sách, hành động cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích,
quyền lợi của người tham gia, bảo đảm môi trường không gian mạng an toàn
và an ninh. Xây dựng và củng cố hệ thống pháp luật quốc gia về khung
danh tính số, định danh số và xác thực điện tử. Xây dựng, củng cố pháp
luật về những chính sách tiền tệ, chính sách tài chính liên quan đến áp
dụng công nghệ số vào những dịch vụ mang tính quốc tế, quản lý thuế điện
tử, thanh toán điện tử, quản lý sản xuất, điện tử hóa mô hình kinh
doanh.
Bốn là,
phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng số. Đẩy mạnh nâng cấp hạ tầng
kỹ thuật, quản lý chặt chẽ và kiểm soát những hình thức thanh toán trực
tuyến, nhất là những giao dịch xuyên quốc gia. Chủ động hoàn thiện hệ
thống hạ tầng thanh toán số song song với việc thống nhất, đồng bộ
phương thức thanh toán không dùng tiền mặt để giao dịch trên toàn quốc.
Chú trọng chuyển đổi giao thức internet sang những thế hệ mới, mở rộng
kết nối internet trong phạm vi khu vực và trên toàn thế giới, nâng cấp
mạng 4G, đẩy nhanh tiến độ phát triển mạng 5G.
Năm là,
đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực. Phát huy
tính tiên phong của doanh nghiệp công nghệ thông tin trong nghiên cứu,
phát triển, làm chủ kỹ thuật số; từ đó, quảng bá thương hiệu khắp quốc
gia, khu vực và mở rộng ra thị trường thế giới. Cần chú trọng đẩy mạnh
phát triển những lĩnh vực theo xu hướng số hóa, như: Năng lượng tự động,
hệ thống giao thông vận tải; đào tạo từ xa, quản lý giảng dạy và học
tập trực tuyến; quản lý hồ sơ bệnh án, điều trị bệnh trực tuyến; hệ
thống quản lý nông - lâm - ngư nghiệp từ xa, thương mại điện tử được
chuyển đổi số… Nghiên cứu, cải tiến, phát triển kỹ thuật số các thiết
bị, máy móc, đáp ứng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của cộng đồng xã
hội, thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp triển khai việc chế tạo, thiết kế,
cải tiến dịch vụ, hàng hóa thay cho việc lắp ráp, gia công.
Sáu là,
khuyến khích phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng các
trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ “lõi”,
nhất là công nghệ số theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, các
trường đại học, viện nghiên cứu là các chủ thể nghiên cứu, chuyển giao
công nghệ. Cơ cấu lại toàn diện hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học
và công nghệ công lập. Tăng mức đầu tư của nhà nước và nâng cao hiệu quả
đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ trên cơ sở áp dụng
mô hình quản trị mới. Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý khoa học -
công nghệ, khuyến khích, huy động mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư cho
nghiên cứu phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ./.
PGS. TS. Trương Thị Hiền
Chủ tịch Hội Nữ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh
______________________
(1) (8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.239, 239.
(2) Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 14/1/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam.
(3) Nền kinh tế số tại Việt Nam sẽ lớn thứ 2 Đông Nam Á, đạt 220 tỷ USD: Các dịch vụ online lên ngôi, https://tapchidoanhnhan.org/chuyen-thuong-truong/nen-kinh-te-so-tai-viet-nam-se-lon-thu-2-dong-nam-a-dat-220-ty-usd-cac-dich-vu-online-len-ngoi.html,
ngày 11/11/2021.
(4) Tường Huy: Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/thuc-day-manh-me-chuyen-doi-so-quoc-gia-580776.html, ngày 18/5/2021.
(5) Bích Ngọc: Việt Nam: Mức độ sẵn sàng tham gia Cách mạng công nghiệp 4.0, http://consosukien.vn/viet-nam-muc-do-san-sang-tham-gia-cach-mang-cong-nghiep-4-0.htm, ngày 23/9/2019.
(6) VietnamWorks: Ngành Công nghệ thông tin Việt Nam thiếu hụt số lượng nhân sự khổng lồ, https://www.vietnamworks.com/hrinsider/nganh-cong-nghe-thong-tin-viet-nam-thieu-hut-so-luong-nhan-su-khong-lo.html, ngày 27/11/2015.
(7) Quốc Trường: Tình hình an ninh mạng của Việt Nam và thế giới trong quý I/2021, http://m.antoanthongtin.vn/an-toan-thong-tin/tinh-hinh-an-ninh-mang-cua-viet-nam-va-the-gioi-trong-quy-i2021-107145, ngày 20/5/2021.
(Nguồn: TC Cộng sản)