Công tác tham mưu không chỉ là tham dự, đề xuất chủ trương, chính sách cho cơ quan lãnh đạo cấp trên, cho lãnh đạo, quản lý cấp mình mà còn là hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện về lĩnh vực mình đảm trách cho cấp lãnh đạo, quản lý và cơ quan tham mưu cấp dưới. Tham mưu vừa là tham gia vào việc đề xuất thiết kế một kế hoạch, một chương trình, vừa đề ra các phương án tổ chức thực hiện các kế hoạch, chương trình của một chủ thể quyền lực lãnh đạo, quản lý nhất định.
Công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương được quy định cụ thể trong các quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, ban, ngành. Trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, thể chế, chế độ chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và giải quyết các vấn đề quốc gia đại sự đều cần có sự tham mưu, hiến kế của các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng là các ban Đảng Trung ương, Ban cán sự Đảng các bộ, ngành, Ban cán sự Đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội và ý kiến tham mưu, đề xuất của các nhà lãnh đạo quản lý, các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học, đặc biệt là sự tham mưu hiến kế của người thầy vĩ đại là Nhân dân.
Thực tiễn chứng minh rằng, trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, ở bất cứ ngành nào, lĩnh vực nào, đều cần đến công tác tham mưu. Tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương là tham mưu chiến lược, gắn liền với hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước. Ở nước ta, các cơ quan Đảng Trung ương có chức năng tham mưu chiến lược cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện Cương lĩnh, các nghị quyết, chỉ thị, chiến lược, kế hoạch, các chương trình công tác, trong triển khai và kiểm tra thực hiện các quyết định lãnh đạo, quản lý, trong tổ chức quản lý và điều hành, điều phối hoạt động của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
Bài viết này chỉ đề cập và phân tích, đánh giá khái quát về công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương trong việc chuẩn bị xây dựng, hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta.
1. Tham mưu để hình thành đường lối đổi mới (trước Đại hội VI)
1.1. Quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta xuất phát từ những bước đột phá về đổi mới tư duy kinh tế trước khi hình thành đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội VI. Việc nghiên cứu, tổng kết và khẳng định những bước đột phá đó là cơ sở hình thành đường lối đổi mới của Đảng có vai trò đóng góp rất quan trọng của các cơ quan tham mưu ở Trung ương.
Các cơ quan tham mưu của Đảng đã phát hiện những hiện tượng “phá rào” trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, tổ chức nghiên cứu tổng kết các sáng kiến, tìm tòi từ thực tiễn của nhân dân, phân tích, đánh giá, đề xuất những kiến nghị, xây dựng đề án trình Hội nghị Trung ương 6 khóa IV. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8-1979) đã thảo luận và đề ra chủ trương với quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra”. Đây là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta. Hội nghị tập trung vào các biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển; khuyến khích tính tích cực, sự chủ động của người lao động… Trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, điều chỉnh một số chính sách kinh tế không còn phù hợp; cải tiến các chính sách lưu thông, phân phối; đổi mới công tác xây dựng, thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp kế hoạch với thị trường; kết hợp ba lợi ích: lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể và lợi ích của cá nhân người lao động. Chấn chỉnh công tác tổ chức và chỉ đạo thực hiện.
Cũng trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn triển khai “khoán chui” ở một số địa phương như Hải Phòng, Vĩnh Phúc,… các cơ quan tham mưu của Đảng đã đề xuất, kiến nghị để Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13-01-1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. “Khoán 100” đánh dấu khởi đầu tư duy kinh tế mới đã tạo ra động lực mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp.
Trên lĩnh vực công nghiệp, đột phá trong tư duy là phát huy quyền tự chủ của các cơ sở trong sản xuất, kinh doanh, tiến hành hạch toán trong kinh doanh, với chủ trương “ba phần kế hoạch” (phần Nhà nước giao có vật tư bảo đảm, phần xí nghiệp tự làm, phần sản phẩm phụ) bước đầu được xác định theo Quyết định số 25/CP và Quyết định số 26/CP, ngày 21-01-1981 của Hội đồng Chính phủ về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh, được áp dụng.
Trên lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa, vấn đề sử dụng nhiều thành phần kinh tế đã được đặt ra; lấy hiệu quả kinh tế làm căn cứ, tiêu chí để vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức sản xuất thích hợp; chính sách đối với kinh tế cá thể từng bước được điều chỉnh cho sát với thực tế hơn; nhấn mạnh chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, mệnh lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống.
Có thể khẳng định: đổi mới tư duy, đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế là xuất phát điểm cho việc xây dựng đường lối đổi mới của Đảng ta và những bước đột phá về tư duy kinh tế trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư và trong các quyết định 25/CP, 26/CP của Chính phủ thời kỳ này như là những ý tưởng ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là bước khởi đầu có ý nghĩa quan trọng. Tư tưởng nổi bật trong những tìm tòi đó là “giải phóng lực lượng sản xuất” trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất: chú ý kết hợp 3 lợi ích, quan tâm hơn đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động.
Nhận thấy những hạn chế, những cản trở trong quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, các cơ quan tham mưu đã đề xuất, tham vấn, để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 20-11-1980, trong đó nhấn mạnh hiệu lực quản lý của Nhà nước về kinh tế theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động, nhất là quyền làm chủ về kinh tế, phát huy quyền tự chủ của các cơ sở sản xuất - kinh doanh…
1.2. Các cơ quan Đảng Trung ương đã tham mưu để từng bước hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
Trên cơ sở tổng kết những thành công và hạn chế bước đầu từ cuối nhiệm kỳ Đại hội IV về đổi mới tư duy, nhất là đổi mới tư duy kinh tế, triển khai trong thực tiễn những bước đổi mới đầu tiên, các cơ quan tham mưu của Đảng đã tham mưu xây dựng, chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội V của Đảng. Đại hội V của Đảng (3-1982) đã đánh giá khách quan những thành tựu và hạn chế bước đầu đổi mới, từ đó đề ra một số chủ trương đổi mới quan trọng. Đại hội V nêu lại tư tưởng về sự phân kỳ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta với khái niệm “chặng đường đầu tiên”; xác định mục tiêu phấn đấu cho từng giai đoạn, cụ thể trong giai đoạn 1981-1985, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu hợp lý, xem đó là “nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt”. Đại hội V còn khẳng định sự tồn tại trong một thời gian nhất định ở miền Nam 5 thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể, tư bản tư nhân)…
Nhận thấy tình hình: trước khó khăn về kinh tế và đời sống lúc bấy giờ, có khuynh hướng muốn quay trở lại với quan niệm và cách làm cũ, các cơ quan tham mưu đã tiếp tục tổng kết thực tiễn và nhận thấy rằng trước sự hối thúc của thực tiễn cuộc sống tất yếu phải có một quyết sách chính trị: muốn tồn tại và đứng vững thì phải quyết tâm đổi mới, không có con đường nào khác. Trên cơ sở đó, các cơ quan tham mưu đã kiến nghị, tham mưu để Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985) thông qua chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang hoạt động theo nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị Trung ương 8 khóa V đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa. Như vậy, Hội nghị Trung ương 8 khóa V được coi như là bước đột phá thứ hai của quá trình hình thành đường lối đổi mới.
Trên cơ sở các đề án tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương, tháng 8-1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo Chính trị và các văn kiện trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế, từ đó đưa ra Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm, đường lối kinh tế: a)Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc. b)Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. c)Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ, dứt khoát đoạn tuyệt với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, đóng vai trò định hướng cho việc soạn thảo lại một cách căn bản Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội VI của Đảng. Căn cứ vào những kết luận có tính nguyên tắc nêu trên, các cơ quan tham mưu của Đảng đã tích cực triển khai, chuẩn bị lại theo tinh thần Đổi mới Dự thảo Báo cáo Chính trị và các văn kiện trình Đại hội VI của Đảng, để xin ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương khóa V.
Những đổi mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước Đại hội VI của Đảng là sự nhìn nhận, đánh giá đúng đắn hơn về tính khó khăn, phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến; về bước đi và chặng đường phải trải qua; về sự cần thiết phải giải phóng mọi lực lượng sản xuất xã hội, về phát triển sản xuất hàng hóa; sự cần thiết phải thay đổi cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa; sự cần thiết phải tạo ra động lực mạnh mẽ cho người lao động - quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động.
Để hình thành và khẳng định những bước đột phá trong nhận thức lý luận của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để từng bước hình thành đường lối đổi mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng đã đóng vai trò quan trọng, mang tính quyết định: từ việc tổng kết những sáng kiến của nhân dân trong thực tiễn để có căn cứ đủ sức thuyết phục nhằm tham mưu đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức đến việc tham mưu để hình thành từng chính sách, từng chủ trương đổi mới, dần dần hình thành đường lối đổi mới toàn diện của Đảng ta
2. Tham mưu để bổ sung, hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới (từ Đại hội VI)
2.1. Tham mưu để từng bước bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của Đảng ta
Phát huy sự chủ động, vai trò, trách nhiệm của mình, các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng đẩy mạnh hoạt động, triển khai nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đề xuất, kiến nghị, chuẩn bị Dự thảo Báo cáo Chính trị và các văn kiện để Đại hội VI của Đảng (12-1986) thảo luận và đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, tạo ra luồng sinh khí mới trong toàn xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước vững bước tiến lên.
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội VI đã đánh giá, phân tích sâu sắc những thành tựu và hạn chế, khuyết điểm, sai lầm, trong đó có sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, phân phối lưu thông, cải tạo xã hội chủ nghĩa,… coi đó “là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, “bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng”.
Đại hội VI đề ra ba Chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, xem đó là mũi nhọn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới; đồng thời chủ trương kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới, áp dụng những biện pháp kích thích sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá, xoá bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường; lập lại trật tự, kỷ cương; giữ ổn định chính trị - xã hội, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Đại hội VI khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiến hành đổi mới chính sách kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội, coi sự tác động qua lại giữa hai loại chính sách này là nhân tố cơ bản bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đây là lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, chính sách xã hội và mối tương quan của nó với chính sách kinh tế được đặt đúng tầm.
Đại hội VI còn nhấn mạnh vấn đề phải làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, đẩy lùi và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh các quan hệ xã hội; đổi mới quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, căn cứ vào tình hình thực tiễn, các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng không ngừng tổng kết thực tiễn tham mưu để các hội nghị Trung ương tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới đất nước.
Sau Đại hội VI, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng, làm cho Nghị quyết Đại hội VI đi dần vào cuộc sống. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VI (tháng 4-1987) về lưu thông phân phối, quyết định bỏ chính sách hai giá, thực hiện “bốn giảm” (giảm tốc độ lạm phát; giảm nhịp độ tăng giá; giảm tốc độ bội chi ngân sách; giảm bớt khó khăn về đời sống của người ăn lương, của Quân đội, Công an, người về hưu, nhân dân lao động), tiếp tục xoá bỏ tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VI (tháng 8-1987) quyết định chuyển hoạt động của các đơn vị công nghiệp quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế, thực hiện tự chủ trong kinh doanh. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988) về tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, thực hiện việc khoán đến hộ (“khoán 10”), tạo động lực mới thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh, toàn diện.
Nhận rõ những nguy cơ từ cải tổ ngày càng theo hướng hữu khuynh ở Liên Xô, Đông Âu, như việc thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập, phủ nhận sạch trơn quá khứ cách mạng; chĩa mũi nhọn phê phán vào Đảng Cộng sản, vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tung ra các tư tưởng, quan điểm xa lạ làm cho tình trạng khủng hoảng ở các nước này ngày càng trầm trọng, xã hội ngày càng hỗn loạn, các cơ quan tham mưu ở Trung ương đã kiến nghị, đề xuất để Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989), cùng với việc tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, đã nêu ra 6 nguyên tắc đổi mới, trong đó nhấn mạnh: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng hơn và có phương pháp phù hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập... Việc khẳng định các nguyên tắc đó đã góp phần ngăn chặn có hiệu quả những tư tưởng hoang mang, dao động; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Đại hội VII (tháng 6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó, cùng với xác định rõ nội dung và tính chất của thời đại, đã làm nổi bật hai nội dung cơ bản: 1) quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng; 2) những phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ mới. Cương lĩnh chỉ rõ: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, phải kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, kiên định và phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng và khoa học. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu các chương trình, các đề tài khoa học cấp nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh, do các cơ quan tham mưu ở Trung ương thực hiện, Cương lĩnh khẳng định vị trí tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.
Cương lĩnh xác định Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực phẩm chất trong sạch, đủ sức gánh vác công việc của Đảng.
Đó là những nội dung cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 phản ánh những nhận thức mới của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội VII còn khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo, kinh tế quốc doanh cùng kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đại hội chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Đại hội VII của Đảng đã trịnh trọng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Hội nghị Trung ương 3 khoá VII (tháng 6-1992) đề ra tư tưởng chỉ đạo và 4 phương châm trong hoạt động đối ngoại của Đảng ta.
Trước sự thay đổi nhanh chóng, mang tính bước ngoặt của tình hình thế giới, của phong trào cách mạng thế giới, trên cơ sở đề xuất, kiến nghị của các cơ quan tham mưu chiến lược của Trung ương, Trung ương Đảng quyết định triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01-1994) tiếp tục phát triển và cụ thể hoá tư tưởng của Đại hội VII, xác định mục tiêu tổng quát của quá trình đổi mới nói riêng, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung, là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hội nghị cũng chỉ ra những nguy cơ mà đất nước phải vượt qua. Đó là: tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tệ tham nhũng và quan liêu; “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Hội nghị đưa ra quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ mới; khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, xem “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội cũng làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; tiếp tục khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (tháng 12-1996) nhấn mạnh hơn vai trò quốc sách hàng đầu của phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đó là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; khẳng định việc phát triển giáo dục - đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, với những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện công bằng trong giáo dục - đào tạo; coi khoa học và công nghệ là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp,...
Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII (tháng 6-1997) tập trung giải quyết vấn đề tiếp tục xây dựng Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Lần đầu tiên trong quá trình đổi mới, Hội nghị đã ra Nghị quyết về chiến lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chỉ ra 5 quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ, mục tiêu của công tác cán bộ và xác định tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới.
Để văn hoá thực sự là “nền tảng tinh thần” của xã hội - một vấn đề đã được khẳng định tại Hội nghị Trung ương 4 khoá VII (tháng 01-1993) nhằm nâng cao vai trò động lực của văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII (tháng 7-1998) đã đề cập một cách toàn diện những nội dung cốt lõi nhất của vấn đề xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII (tháng 10-1998) quyết định mở cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong 2 năm 1999 - 2001; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu; chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Nghị quyết Đại hội VIII và Nghị quyết các Hội nghị Trung ương nêu trên đã tháo gỡ được nhiều khó khăn, nhưng đi vào thực tế, tình hình lại có những diễn biến phức tạp mới: thiên tai dồn dập diễn ra từ năm 1997 đến năm 1999 đã gây thiệt hại lớn đối với nhiều vùng của đất nước; cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á và một số nước trên thế giới đã tác động mạnh, làm cho kinh tế nước ta đứng trước những khó khăn mới. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương 8 khoá VIII (tháng 12-1999) đã đánh giá đúng tình hình, xác định những chủ trương và giải pháp mới nhằm ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội IX (tháng 4-2001) là Đại hội mở đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam. Đại hội đã nhìn lại một cách tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII (1996 - 2000), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000), rút ra 4 bài học qua 15 năm đổi mới (1986 - 2000): Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới; định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI với phương hướng tổng quát là: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đại hội xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (điểm mới là có thêm từ “dân chủ”).
Đại hội IX đánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn về vị trí, vai trò và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội nhấn mạnh tính khó khăn, phức tạp của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ; khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ.
Đại hội đã làm rõ vai trò động lực to lớn của đại đoàn kết toàn dân, của vấn đề dân chủ, của việc quan tâm tới lợi ích chính đáng của con người; chỉ ra nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay: đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Đại hội nâng đường lối đối ngoại lên mức cao hơn, toàn diện hơn: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đường lối này đã được cụ thể hoá trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá IX với cách nhìn nhận mới và thống nhất về các vấn đề đối tác và đối tượng, định hướng cho chính sách và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới.
Hội nghị Trung ương 5 khoá IX (tháng 02-2002) đã ra các nghị quyết: Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010; Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Đảng khẳng định: Kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi người lao động, các hộ sản xuất - kinh doanh, các doanh nghiệp không giới hạn quy mô, lĩnh vực, địa bàn, phân phối theo lao động và vốn cùng mức độ tham gia dịch vụ. Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư nhân được phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô; những đảng viên đang làm chủ doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt Điều lệ Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước thì vẫn là đảng viên của Đảng; công tác tư tưởng, lý luận phải góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, ngăn chặn suy thoái về đạo đức, lối sống...
Hội nghị Trung ương 7 khoá IX (tháng 01-2003) khẳng định vai trò động lực chủ yếu của đại đoàn kết toàn dân tộc; vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hội nghị Trung ương 8 khoá IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; khẳng định quan điểm toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và những định hướng lớn trên vấn đề này.
Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 01-2004) đã kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, tiếp tục khẳng định phương hướng chính trị cơ bản trong những thập niên đầu thế kỷ XXI mà Đại hội đã nêu lên, nhấn mạnh vấn đề tạo bước tiến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, tạo sự chuyển biến toàn diện và sâu sắc trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng...
Có cơ sở để khẳng định rằng, sau Đại hội VI, các Đại hội VII (6-1991), Đại hội VIII (6-1996), Đại hội IX (4-2001) là những bước phát triển quan trọng, hoàn thiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng. Đó là quá trình đổi mới từ thấp đến cao, từ đổi mới bộ phận, từng mặt đến đổi mới toàn diện, ngày càng đi vào chiều sâu.
Đại hội X của Đảng (4-2006) trên cơ sở tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới, đã khẳng định công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét căn bản. Văn kiện Đại hội X đã khái quát 8 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; 8 phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X và các nghị quyết Trung ương khóa X đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã ra Nghị quyết về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nửa cuối nhiệm kỳ Đại hội X, các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng đã tích cực tham gia tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, đồng thời tích cực chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng. Đại hội XI (tháng 01-2011) đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh, làm rõ thêm 8 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, 8 phương hướng cơ bản và 8 mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng nắm vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đánh dấu một bước tiến quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Với sự tham mưu tích cực của các ban, ngành, các cơ quan Trung ương, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã thảo luận, ban hành nhiều nghị quyết, kết luận quan trọng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế (Hội nghị Trung ương 3); về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay (Hội nghị Trung ương 4); một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020 (Hội nghị Trung ương 5); về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (Hội nghị Trung ương 6); về đổi mới, tăng cường công tác dân vận; về tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (Hội nghị Trung ương 8); về xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững (Hội nghị Trung ương 9);… Các nghị quyết, kết luận của Trung ương khóa XI nêu trên là bước phát triển mới về nhận thức trên cơ sở tổng kết thực tiễn thực hiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, với sự kiến nghị, đề xuất của các cơ quan tham mưu, sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân, Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành bổ sung, sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013, một văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng của Nhà nước ta, sự thể chế hóa Cương lĩnh, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng ta trong thời kỳ mới.
2.2. Khái quát những quan điểm, chủ trương nổi bật trong đường lối đổi mới của Đảng ta được hình thành, phát triển trong gần 30 năm qua, có sự tham mưu vô cùng quan trọng của các cơ quan Đảng Trung ương trên cơ sở khảo nghiệm thực tế, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận:
Một là, khẳng định và phát triển nền tảng tư tưởng đường lối đổi mới của Đảng
Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Càng đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực tiễn càng đòi hỏi sự phát triển không ngừng của lý luận, nhất là phương thức xử lý trước những vấn đề mới mẻ và chưa chín muồi. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới, Đại hội VII (6-1991) của Đảng quyết định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây là vấn đề cực kỳ hệ trọng và có ý nghĩa hết sức to lớn đối với tiến trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới và tiền đồ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đây cũng là một bước tiến lớn, một đóng góp vô giá của công tác tham mưu trong việc xây dựng các quan điểm và các nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới.
Đến Đại hội IX (4-2001), Đảng ta đã hình thành nhận thức đầy đủ hơn, toàn diện hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ nội tại và sức mạnh vô địch của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới.
Hai là, xác định định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu vận động của cách mạng Việt Nam. Nước ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những bước đi dích dắc, khúc khuỷu, thậm chí cả giật lùi... nên cần phải có định hướng xã hội chủ nghĩa đối với toàn bộ hành trình trên con đường phải đi. Đây vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là nhu cầu chủ quan trong mỗi bước tiến trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đáp ứng đòi hỏi đó, các cơ quan tham mưu đã nghiên cứu, đề xuất để Đảng hoạch định về cơ bản định hướng xã hội chủ nghĩa trên những lĩnh vực chủ yếu của công cuộc đổi mới: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại..., chỉ rõ những khía cạnh cần đề phòng nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh mới của thời đại và đất nước. Luận điểm định hướng có tính chất then chốt là giữ vững vai trò lãnh đạo của một Đảng Cộng sản cầm quyền, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; là lý thuyết về sự “phát triển rút ngắn” con đường quá độ “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách biện chứng và thực tế: từ định hướng, định tính tới định lượng và định kỳ với những nấc thang, nhịp độ, bước đi cụ thể, phù hợp. Có thể hình dung khái quát, định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình xác định những giới hạn, những “độ” tồn tại lịch sử của chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ điểm xuất phát tới đích cuối cùng, với những hành trình, bước đi xác định cụ thể và phù hợp... theo những tính quy luật, quy luật và nguyên tắc xã hội chủ nghĩa mà nếu vượt ra ngoài những giới hạn, những “độ” ấy sẽ chệch hướng xã hội chủ nghĩa và tất yếu xuất hiện một chế độ xã hội khác với xã hội xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng đã nghiên cứu, tổng kết, đề xuất với Đảng xác định định hướng xã hội chủ nghĩa trên từng lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội đất nước và ngày càng bổ sung thêm những nhận thức mới về vấn đề căn bản này. Từ mô hình chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng (năm 1996) tới mô hình với 8 đặc trưng (năm 2006 và bổ sung phát triển năm 2011) là bước tiến vượt bậc trong xử lý cái phổ biến và cái đặc thù về chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay của Đảng ta, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam.
Ba là, phát kiến lý luận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Bắt đầu công cuộc đổi mới (năm 1986), Đảng ta xác định: xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Với khâu đột phá là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, công tác lý luận tập trung mọi cố gắng kiến giải, xác lập và nỗ lực góp phần thực thi nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, và đến Đại hội IX (4-2001) Đảng ta khẳng định: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo quá trình xây dựng, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đảng ta không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ yếu, nội dung khá toàn diện và các biện pháp hiệu quả thực thi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm xác lập một nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ, bền vững và độc lập tự chủ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đủ tiềm lực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là vấn đề mang tính tất yếu của công cuộc đổi mới mà còn là sự đúng đắn về nguyên tắc, quan điểm của Đảng, đồng thời là đòi hỏi của thực tiễn đất nước với điểm xuất phát thấp đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam; không chỉ là nền móng bảo đảm độc lập, tự chủ về chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh mà còn là điều kiện căn bản và môi trường rộng mở tối ưu bảo đảm cho sự phát triển năng động, mạnh mẽ và bền vững của nền kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và vì mục tiêu tiến bộ xã hội, xét trên cả hai bình diện đối nội và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, hiệu quả. Đó cũng là sự thể hiện ưu thế tuyệt đối của chế độ xã hội ta khi xem kinh tế thị trường chỉ là phương tiện, công cụ hữu hiệu để xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phục vụ nhân dân so với các chế độ xã hội khác cũng phát triển kinh tế thị trường.
Đó là một quyết sách đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân trên nguyên tắc xã hội chủ nghĩa và hợp với xu thế phát triển của thời đại của Đảng ta, một đóng góp to lớn và mới mẻ của công tác lý luận, của các cơ quan tham mưu chiến lược.
Bốn là, kiến tạo lý luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân là sự phát triển mới về nhận thức chính trị, một mục tiêu quyết định, một nội dung căn bản, một bước tiến lớn về thực tiễn của công cuộc đổi mới toàn diện, trước hết trên bình diện chính trị của Đảng ta.
Nhà nước pháp quyền mà chúng ta xây dựng phải giữ bản chất cách mạng, bản chất giai cấp, thực sự là công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, với phương thức thực thi quản lý bằng pháp quyền, theo pháp luật; nêu cao vị trí, vai trò của pháp chế, yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân trong xã hội đều phải có nghĩa vụ tôn trọng và tuân thủ luật pháp đi đôi với phát huy các giá trị đạo đức và văn hoá dân tộc.
Ở thời điểm hiện nay, mặc dù còn không ít khiếm khuyết, không ít hạn chế, song công tác lý luận đã phác thảo một cách vừa đại lược có tính căn bản sâu sắc vừa cụ thể có tính thực tiễn khả thi cao một hệ thống lý thuyết và nỗ lực tổ chức thực tiễn nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: từ vị trí, vai trò, bản chất, chức năng, nhiệm vụ tới đặc trưng, nội dung, mô hình tổ chức quyền lực, đổi mới thể chế và cơ chế vận hành bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và những điều kiện tiên quyết cần và đủ theo hướng căn cơ, hiện đại bảo đảm cho việc thực thi quyền lực của Nhà nước, tất cả nhằm phục vụ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với điều kiện đất nước và xu thế vận động của thời đại.
Năm là, nhận diện và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng; xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Trên nền tảng văn hoá truyền thống, kế thừa một cách chọn lọc những thành tựu đổi mới đất nước, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, Đảng ta đã từng bước xác lập được một hệ giá trị mới của nền văn hoá Việt Nam dân tộc, hiện đại, hoạch định chiến lược phát triển của văn hoá theo nghĩa rộng nhất của phạm trù này, với những lĩnh vực then chốt hợp thành chỉnh thể hữu cơ của nền văn hoá mới Việt Nam, với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng, vừa là động lực nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vấn đề hết sức mới mẻ là, Đảng ta đã nhận thức một cách toàn diện, sâu sắc và đồng bộ tạo cho được sự phát triển hài hoà, gắn bó hữu cơ giữa kinh tế với văn hoá đáp ứng nhu cầu phát triển tất yếu của đất nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với sự tương dung và hiệu quả trên cả ba phương diện: cơ chế vận hành phù hợp, thiết chế không ngừng đổi mới và đội ngũ cán bộ thích ứng. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện…
Có thể nói, sự đột phá ấy trên phương diện này là mới mẻ và phù hợp, là bộ phận quan trọng có tính tiền đề góp phần hợp thành chỉnh thể chiến lược phát triển đất nước một cách căn bản và bền vững trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Sáu là, xây dựng lý luận mở cửa, hội nhập quốc tế
Đảng ta đã chủ động xây dựng, từng bước bổ sung, ngày càng hoàn thiện một nền lý luận và đường lối đối ngoại Việt Nam của thời kỳ đất nước mở cửa, hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá, sự vận động và phát triển của luận điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo: từ “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” (năm 1991) tới “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lâp và phát triển” (năm 2001), và “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” trong thế “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” (năm 2011) đã thể hiện một cách hết sức biện chứng và minh triết quan điểm, phương châm, nghệ thuật ngoại giao và khát vọng của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế.
Bảy là, phát triển lý luận về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Thành tựu lý luận nổi bật của gần 30 năm đổi mới là, Đảng ta đã từng bước làm rõ toàn diện hơn, sâu sắc hơn và thấu triệt hơn những vấn đề cơ bản về tính quy luật của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong thời đại ngày nay.
Với sự tham mưu, kiến giải của các cơ quan tham mưu, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta hết sức chú trọng tổng kết những vấn đề cơ bản trên các phương diện lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức bao trùm toàn bộ đời sống kinh tế xã hội đất nước trong công cuộc đổi mới. Đặc biệt, những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn nguyên giá trị, và Đại hội IX, X, XI của Đảng đã rút ra những bài học quý báu. Có thể nói, đó là sự kết tinh tập trung, cụ thể và sinh động về mặt lý luận cầm quyền của Đảng.
Nhìn lại 30 năm, bước đầu có thể hình dung khái lược những thành tựu lý luận mới mẻ về vấn đề Đảng cầm quyền được thể hiện một cách tập trung trên 10 bình diện chủ yếu: 1) Quy luật cầm quyền; 2) Quan niệm cầm quyền; 3) Cơ sở cầm quyền; 4) Phương lược cầm quyền; 5) Nội dung cầm quyền; 6) Cơ chế cầm quyền; 7) Phương thức cầm quyền; 8) Nguồn lực cầm quyền; 9) Môi trường cầm quyền; và 10) Nguy cơ đối với cầm quyền.
Tám là, xác định và phát huy động lực to lớn của cách mạng Việt Nam
Đảng ta khẳng định: “Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Đó là một bước tiến mới, một bổ sung mới trong nhận thức và hành động thực hiện đại đoàn kết toàn dân như một mục tiêu, một nhiệm vụ, một công tác hàng đầu, một đạo lý sống và hành xử Việt Nam. Đó là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh có tính chân lý trong thời đại ngày nay: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Là then chốt của thành công”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Phương châm thực hiện là đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài; đoàn kết trên cơ sở những điểm tương đồng, trên tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một sáng tạo lớn, một sự phát triển mới của Đảng trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khẳng định và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc là “động lực chủ yếu” hợp thành hệ động lực gồm động lực kinh tế, động lực văn hoá... của sự nghiệp đổi mới là một nỗ lực lớn và mới của công tác lý luận. Và, xét về cấu trúc lý thuyết đổi mới, nó là một trong những trụ cột lý luận căn bản và mới mẻ góp phần làm nên diện mạo và tố chất của con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, với sự vào cuộc chủ động, tích cực đóng góp, hiến kế của hệ thống các cơ quan tham mưu, qua kiểm nghiệm bằng thực tiễn gần 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã từng bước hình thành, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên tất cả mọi phương diện: về xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; về giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh; về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về đường lối và chính sách đối ngoại; về hội nhập kinh tế quốc tế tiến tới hội nhập quốc tế; về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh; về nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ lớn…
3. Đánh giá chung về công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương trong quá trình hình thành, bổ sung, hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới của Đảng
Đường lối đổi mới đất nước của Đảng được hình thành, là kết quả của quá trình tìm tòi, thử nghiệm trong thực tiễn của nhân dân; là kết quả của quá trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn của các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng; là quá trình từng bước đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta trên cơ sở khảo sát, tổng kết, phân tích thấu đáo thực tiễn sinh động trong nước và quốc tế. Đó là kết quả của sự đấu tranh gian nan, căng thẳng, gay gắt giữa cái cũ và cái mới, giữa những quan niệm, cách nhìn nhận vấn đề lý luận và thực tiễn của các nhà khoa học, các chuyên gia trên các lĩnh vực khác nhau, của các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà hoạt động thực tiễn và sáng kiến của quảng đại nhân dân.
Công tác tham mưu ngày càng bám sát, nắm bắt kịp thời, trúng hơn các vấn đề thực tiễn phát triển đất nước đặt ra, từ đó kiến nghị, đề xuất, tham mưu với Trung ương để Trung ương ban hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định phù hợp, kịp thời với tình hình đất nước. Nhờ đó, các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương phát huy tác động tích cực, nhanh chóng đi vào cuộc sống, quyết định sự phát triển đất nước theo hướng bền vững.
Hệ thống các cơ quan tham mưu ở Trung ương không ngừng được củng cố, tổ chức lại, phân công, phân nhiệm hợp lý hơn, nhờ vậy phát huy tốt hơn sức mạnh tổng hợp, năng lực của từng cơ quan, cũng như của cả hệ thống.
Xác lập được cơ quan đầu mối, chủ trì, điều phối các đề án, dự án để chuẩn bị trình Trung ương xem xét, ban hành nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quyết định.
Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tham mưu không ngừng được bổ sung, nâng cao chất lượng, được thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tham mưu được đa dạng hóa: đào tạo tâp trung, bồi dưỡng ngắn hạn, đào tạo, bồi dưỡng trong nước, ngoài nước,…
Phương thức, cách thức tham mưu được đổi mới không ngừng, ngày càng khoa học, bài bản hơn. Các chủ trương, nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định, quy chế của Trung ương đều dựa trên sự chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, nghiêm túc thông qua việc triển khai chuẩn bị các đề án, đề tài nghiên cứu khoa học của các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng. Các Ban Chỉ đạo, các Tổ Biên tập đề án đều tiến hành khảo sát thực tiễn ở các địa phương, bộ, ngành; lấy ý kiến góp ý của các đối tượng sẽ chịu tác động trực tiếp của các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, chính sách sẽ được ban hành; tổ chức tọa đàm, hội thảo khoa học để xin ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các cán bộ lãnh đạo, quản lý; đồng thời, xin ý kiến các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương,… Trên cơ sở đó, các Tổ Biên tập đề án chắt lọc những ý kiến hợp lý, có giá trị, có cơ sở khoa học và thực tiễn để đưa vào dự thảo đề án để trình Ban Chỉ đạo. Các Ban Chỉ đạo cho ý kiến, thảo luận, hoàn chỉnh đề án trình Bộ Chính trị. Sau khi Bộ Chính trị cho ý kiến, các đề án được hoàn thiện trước khi trình Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương. Tại các Hội nghị Trung ương, Trung ương thảo luận kỹ và Bộ Chính trị có tiếp thu, giải trình thêm những vấn đề Trung ương đặt ra trong quá trình thảo luận. Cuối cùng, Trung ương biểu quyết về những vấn đề lớn về chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng.
Hội đồng Lý luận Trung ương, Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương ngày càng phát huy vai trò đầu mối, thực hiện chức năng thẩm định, đánh giá rất quan trọng đối với các đề án, dự thảo nghị quyết, kết luận, chỉ thị sẽ trình ra Trung ương để xem xét, quyết định ban hành nghị quyết, kết luận, chỉ thị.
Bên cạnh những đóng góp tích cực, quan trọng nêu trên, công tác tham mưu chiến lược của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế sau:
- Công tác tổ chức nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận của Đảng chưa ngang tầm, còn nhiều bất cập, lạc hậu nên làm hạn chế trong tổ chức, chỉ đạo thực tiễn. Chất lượng tham mưu còn hạn chế, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Năng lực của các cơ quan tham mưu, của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tham mưu, nhất là trong dự báo tình hình vẫn là khâu yếu, còn nhiều bất cập, dẫn đến bị động, mà chưa dự báo đúng, trúng để chủ động tham mưu kịp thời vấn đề thực tiễn đặt ra.
- Nhận thức của một số cơ quan tham mưu, của cán bộ, công chức về một số vấn đề cơ bản trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc còn hạn chế, chưa sâu sắc, chưa thống nhất cao nên trong việc tham mưu để hoạch định và thực hiện một số chủ trương, giải pháp còn lúng túng, quyết tâm chưa cao, thiếu dứt khoát.
- Tham mưu trong tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới vẫn là khâu yếu. Chưa làm đúng, thậm chí có nơi, có lúc còn làm sai nghị quyết, chủ trương của Đảng đã đề ra. Một số chính sách chưa sát với thực tiễn nên tính khả thi thấp. Chưa thật đồng bộ trong sự phối hợp giữa các ngành, các cấp.
- Tham mưu trong công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, kết luận của Trung ương chưa được tiến hành thường xuyên, chưa chặt chẽ.
- Tham mưu về công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương cũng thực hiện chưa đều đặn. Có nghị quyết, kết luận, chỉ thị sau 15 năm, thậm chí 20 năm mới được sơ kết, tổng kết,…
- Phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm đổi mới, một số vấn đề còn lúng túng, vướng mắc. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế, bất cập cũng ảnh hưởng ngược lại, làm cho chất lượng tham mưu chưa cao.
- Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức làm công tác tham mưu còn nhiều bất cập trước yêu cầu đổi mới, thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tham mưu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cơ quan tham mưu, kể cả ở cơ quan tham mưu cấp Trung ương còn thiếu gương mẫu.
- Kết quả tham mưu của các cơ quan tham mưu chất lượng chưa cao, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, yêu cầu của Trung ương. Chính vì vậy mà có nghị quyết, kết luận của Trung ương chưa thực sự sát hợp với thực tiễn đất nước, khó triển khai trong cuộc sống.
4. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác tham mưu, góp phần hoàn thiện đường lối đổi mới
Để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác tham mưu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, thời gian tới cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau:
- Nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan tham mưu, của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan tham mưu cấp chiến lược. Trước tình hình mới, yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận mang tính đột phá để tham mưu cho Đảng: đổi mới tư duy quyết liệt hơn nữa; phải có những đột phá về mặt lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta để tham mưu phát triển hơn nữa đường lối đổi mới.
- Các cơ quan tham mưu, cán bộ làm công tác tham mưu trước hết phải nắm vững chủ trương, đường lối, chiến lược, chương trình, mục tiêu phát triển trên các lĩnh vực của Đảng và Nhà nước để tham mưu đúng và trúng vấn đề.
- Các cơ quan tham mưu, cán bộ làm công tác tham mưu phải nắm vững chương trình, kế hoạch công tác toàn khóa, hằng năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Quốc hội, của Chính phủ để xây dựng kế hoạch công tác, chủ động đề xuất các đề án, dự án trình Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của thực tiễn phát triển bền vững đất nước.
- Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, các cơ quan làm công tác tham mưu phải chủ động, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, khảo sát, tổng kết thực tiễn trên các lĩnh vực được phân công tham mưu, để dự báo đúng tình hình, phát hiện trúng vấn đề, đề xuất, kiến nghị với Trung ương ra nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo, chỉ đạo. Đồng thời, tham mưu thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện nghị quyết, góp phần phản ánh với Trung ương về kết quả, hiệu quả thực hiện, mức độ đi vào cuộc sống của các nghị quyết, chỉ thị; phản ứng, sự tham dự của các đối tượng chịu tác động vào quá trình triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch, do Trung ương ban hành.
- Nâng cao phẩm chất chính trị, thái độ, tinh thần trách nhiệm làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan làm công tác tham mưu; tăng cường khả năng tự đề kháng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,…
- Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công tác tham mưu ở các cơ quan Đảng Trung ương, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, ngày càng phức tạp, khó khăn của công tác tham mưu chiến lược.
- Có chế độ, chính sách, biện pháp để thu hút, huy động tối đa, triệt để, hiệu quả sự tham gia, đóng góp ý kiến, hiến kế của các nhà khoa học, các chuyên gia ở các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ sở đào tạo đại học; các cán bộ nguyên lãnh đạo, quản lý cấp cao, đặc biệt là của đội ngũ nguyên cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở các cơ quan tham mưu chiến lược.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ triển khai thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), phấn đấu để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương khóa XI; chuẩn bị mọi điều kiện, tiền đề để phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đồng thời đang tích cực chuẩn bị tiến hành đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Các cơ quan tham mưu, nhất là cơ quan tham mưu cấp chiến lược của Đảng phải nỗ lực tối đa thể hiện được vai trò, vị trí của mình, đáp ứng được yêu cầu và sự mong đợi của Trung ương Đảng. Trước mắt là tập trung thực hiện có hiệu quả việc tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới và chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng./.
PGS, TS. Vũ Văn Phúc
Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
(Nguồn: TCCS)