Thứ Bảy, 28/9/2024
Giáo dục
Thứ Ba, 10/6/2014 21:11'(GMT+7)

Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục: thực trạng và giải pháp

Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 15-6-2004 của Ban Bí thư (khóa IX) về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã nêu rõ giáo dục Việt Nam trong hoàn cảnh mới của đất nước, cũng như bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi đòi hỏi phải: “xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đang bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần có phương hướng khắc phục.

1. Trong công cuộc đổi mới đất nước của Đảng ta, giáo dục và đào tạo (GD-ĐT) được coi là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH). Theo đó, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cũng hết sức được quan tâm, cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô giáo dục. Trong 10 năm qua, nhìn chung quy mô giáo dục nước ta ở tất cả các cấp, bậc học đều tăng. Số lượng nhà giáo và cán bộ quản lý tăng lên như vậy đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhân lực cho ngành giáo dục trong bối cảnh phát triển mạnh về qui mô trường lớp, số lượng học sinh, sinh viên ở các cấp, bậc học.

Bước đầu khắc phục được sự bất cập về cơ cấu giữa các môn học, giữa các vùng miền, từng bước  nâng cao trình độ đào tạo. Sự bất hợp lý trong cơ cấu đội ngũ nhà giáo theo cấp, bậc học, theo chuyên môn, ngành nghề và vùng miền đã dần được khắc phục. Ở phổ thông, đã đáp ứng được giáo viên một số môn học đặc thù như thể dục, nhạc, họa, giáo dục công dân, tin học, ngoại ngữ, công nghệ; trong đó một số môn học như ngoại ngữ, tin học, thể dục đều có số lượng vượt cao hơn so với một số môn như địa lý, lịch sử, sinh học, vật lý, hóa học. Ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tuy còn gặp nhiều khó khăn trong việc điều động giáo viên, nhưng do có chính sách ưu đãi (phụ cấp giáo viên công tác ở vùng khó khăn) nên cơ bản có đủ số lượng giáo viên và cán bộ quản lý.

Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục từng bước đạt chuẩn trình độ đào tạo, trong đó một phần đáng kể đã đạt trình độ trên chuẩn. Năng lực sư phạm của phần lớn nhà giáo được nâng lên, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp dạy học ở phổ thông, đổi mới phương pháp đào tạo ở dạy nghề, cao đẳng, đại học. Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các cấp đều được nâng lên theo chuẩn và vượt chuẩn; nhất là ở phổ thông, cán bộ quản lý được đào tạo cử nhân gần như đạt 100%, tỷ lệ đào tạo Thạc sĩ ngày càng tăng; ở cao đẳng, đại học, tỷ lệ đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ đạt đạt từ 20%-50%. Hiện nay, ngành giáo dục đang hướng tới mục tiêu đào tạo vào năm 2015 có 100% giảng viên cao đẳng, đại học đạt trình độ Thạc sĩ, trong đó ít nhất có 25% đạt trình độ Tiến sĩ. Công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ (theo các chương trình, dự án) cho cán bộ quản lý các cấp những năm qua đã được quan tâm, phần nào nâng cao năng lực quản lý trong các cơ sở, ở các cấp quản lý giáo dục. Tính đến năm 2013, đã có trên 30.000 lượt nhà giáo và cán bộ quản lý được tập huấn nghiệp vụ (do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức); riêng đội ngũ cán bộ quản lý trường phổ thông có tới hơn 13.000 lượt người được tham dự chương trình liên kết Việt Nam-Singapore. Nhờ vậy, bước đầu giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý ở các cơ sở giáo dục phổ thông đã tham mưu tích cực và hiệu quả cho cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp trong việc ban hành chủ trương, chính sách phát triển giáo dục phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội địa phương.

Bước đầu tiếp cận phương pháp giáo dục và phương thức quản lý tiên tiến. Ở các cơ sở giáo dục Mầm non đã có những dấu hiệu tốt về việc tổ chức chăm sóc, nuôi dạy trẻ theo phương pháp khoa học. Ở các cấp học phổ thông đã có những thay đổi lớn về phương pháp soạn bài, giảng bài, tổ chức giáo dục theo chủ đề, chủ điểm, giáo viên biết khơi gợi tính tích cực, tự giác của học sinh. Công tác đào tạo nghề cũng đã bám sát nhu cầu xã hội, giảm bớt lý thuyết, tăng thực hành, gắn kết cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất. Các cơ sở giáo dục thuộc cao đẳng, đại học đã hướng vào phương thức đào tạo tiên tiến, khắc phục kiểu dạy học nhồi nhét kiến thức hàn lâm sang hướng dẫn, tổ chức sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Đến nay, tuy việc đổi mới chưa được như mong muốn, chưa xóa bỏ được nếp tư duy giáo dục xơ cứng, mệnh lệnh, áp đặt, nhưng đã có chuyển biến nhiều trong điều hành của cán bộ quản lý, xu hướng quản lý chất lượng đang dần được đội ngũ cán bộ quản lý vận dụng, chỉ đạo. Nhìn chung, phương pháp giáo dục của giáo viên, phương pháp đào tạo của giảng viên và phương thức quản lý của cán bộ quản lý đang có chuyển biến tích cực, tạo ra những nét mới, làm tiền đề để tiếp tục đẩy mạnh đổi mới sâu sắc phương pháp, qui trình giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp, bậc học.

Đa số nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục vẫn giữ được phẩm chất  đạo đức nghề nghiệp trong cơ chế thị trường. Trong cơ chế thị trường, nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục vẫn thực sự là lực lượng nòng cốt trong ngành giáo dục, là nhân tố quyết định cho những thành công của giáo dục nước nhà, đóng góp quan trọng vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh những mặt ưu điểm, mặt tích cực, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn tồn tại một số bất cập cần khắc phục để đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ mới của đất nước trong thời kỳ đổi mới để hội nhập quốc tế.

Chất lượng chưa tương xứng với bằng cấp đào tạo, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới giáo dục. Tỷ lệ giáo viên phổ thông đạt bằng cấp đào tạo rất cao (Trung Bộ, Tây Nguyên, Tây Nam bộ, Tây Bắc là những vùng khó khăn nhưng cũng đạt trình độ đào tạo từ cao đẳng trở lên khoảng 95%, các vùng khác đạt trên 98%), nhưng chất lượng đội ngũ vẫn chưa tương xứng với bằng cấp; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chưa đáp ứng yêu cầu  đổi mới giáo dục. Một bộ phận nhà giáo vẫn chưa thoát khỏi phương pháp dạy học cũ, ch­a nhạy bén và thích ứng với những tình huống và sự biến đổi phức tạp của giáo dục trong từng địa phương, từng cấp học. Kỹ năng sư phạm của một bộ phận nhà giáo còn yếu, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chưa thực sự thay đổi cách dạy theo hướng “dạy cho người học biết cách học” mà vẫn nặng về “dạy kiến thức cho người học”; chưa chú trọng việc giáo dục nhân cách, giáo dục kĩ năng sống theo nếp sống có văn hóa cho học sinh, sinh viên. Số nhà giáo cốt cán, đầu ngành còn quá ít, trong khi đó công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung chưa đáp ứng được thực tế. Số nhà giáo trong các trường đại học có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ và tin học còn chiếm tỷ lệ thấp, do đó ảnh hưởng nhất định tới việc khai thác tài liệu nước ngoài, nghiên cứu khoa học. Năng lực và kĩ năng của cán bộ quản lý còn nhiều bất cập, yếu nhất là tầm việc xây dựng chiến lược ở tầm vĩ mô chưa có tầm nhìn tổng thể, các chương trình, kế hoạch, đề án giáo dục chưa được thiết kế theo hướng tổng thể, đồng bộ; việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục ở cơ sở cũng chưa sát với thực tế; quản lý chuyên môn còn nặng về tính hành chính, ít chiều sâu chuyên môn, chỉ đạo theo kiểu phong trào, nặng tính hình thức.

Tình trạng thừa, thiếu cục bộ về đội ngũ nhà giáo vẫn tồn tại. Ở mầm non và phổ thông, số lượng giáo viên về cơ bản đã đủ theo định biên, nhưng phân bố chưa đồng đều giữa các vùng, miền; tình trạng vừa thừa vừa thiếu cục bộ (nhất là về cơ cấu môn học) vẫn tồn tại ở phổ thông, nhất là một số môn đặc thù như Ngoại ngữ, Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, Giáo dục Quốc phòng, Giáo dục Công dân. Ở đồng bằng và đô thị đang có tình trạng ứ đọng sinh viên tốt nghiệp đại học sư phạm, trong khi đó có những địa phương thuộc vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa vẫn khó thu hút giáo viên. Giáo viên phổ thông ở miền núi tuy đủ về số lượng theo biên chế, nhưng do tình trạng trường học bị chia nhỏ thành các điểm trường, nên vẫn có tình trạng thiếu giáo viên cục bộ. Ở trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, số lượng giáo viên còn rất mỏng, nhưng rất khó tuyển (vì lương thấp, không đủ thu hút, hơn nữa còn vì qui mô đào tạo cũng không phát triển). Ở cao đẳng, đại học đang có tình trạng hụt hẫng về đội ngũ, với qui mô đào tạo như hiện nay thì đại học chưa bảo đảm qui định tỉ lệ giảng viên/sinh viên (cao đẳng 26 sinh viên/1 giảng viên, đại học 31 sinh viên/1 giảng viên; cá biệt có những môn học bình quân 100 sinh viên/1 giảng viên). Ở các trường ngoài công lập, số giáo viên cơ hữu còn rất mỏng, do vậy phải hợp đồng thỉnh giảng với giáo viên ở các trường công lập hoặc giáo viên đã nghỉ hưu, khiến cho tính ổn định trong các cơ sở giáo dục không bảo đảm, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giáo dục.

Xuất hiện hiện tượng xuống cấp về phẩm chất đạo đức nhà giáo. Do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, do công tác quản lý, giám sát đối với nhà giáo và cán bộ quản lý thiếu nghiêm minh, nên đã có những biểu hiện cá biệt, nhưng rất nghiêm trọng về sự xuống cấp phẩm chất đạo đức nhà giáo. Sự phân tầng, phân lớp giữa những giáo viên trong từng nhà trường cũng rất đáng lo ngại, đang tiềm ẩn nguy cơ làm mất tính đoàn kết trong nội bộ. Sự xuống cấp phẩm chất đạo đức đã làm phai nhạt truyền thống tôn vinh của xã hội đối với nhà giáo, ảnh hưởng nghiêm trọng đến giáo dục làm người cho thế hệ trẻ. Một bộ phận cán bộ quản lý còn thiếu công tâm trong đánh giá, xếp loại giáo viên, dẫn đến tình trạng bè phái, mất đoàn kết, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục trong nhà trường. Công tác qui hoạch, bổ nhiệm cán bộ ở các cấp, các cơ sở còn gây dư luận bất bình, bất mãn trong giáo viên, giảng viên và cán bộ công chức của ngành giáo dục. Công tác giáo dục chính trị, phát triển đảng viên trong nhà trường tuy có được quan tâm nhưng chưa đúng mức.    

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do:

Việc triển khai một số Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, một số chính sách của Nhà nước đối với nhà giáo còn chậm, thiếu quyết liệt, nên kết quả chưa đạt yêu cầu, chưa đưa chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống, chưa phát huy tối ưu năng lực, phẩm chất nhà giáo, chưa đủ sức xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý thành nòng cốt của sự nghiệp giáo dục.

Nhà nước đã quan tâm dành tỷ lệ ngân sách đáng kể cho phát triển giáo dục (khoảng 20% ngân sách), nhưng do tổng chi ngân sách của Việt Nam ở mức thấp nên sự đầu tư đó vẫn không đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục. Vì vậy, nguồn kinh phí từ Trung ương cấp cho các địa phương, cơ sở giáo dục cũng chỉ mới đủ để chi trả lương (khoảng 80% ngân sách), tỷ lệ ngân sách còn lại chi cho một số hoạt động hành chính, tu sửa cơ sở vật chất, còn hoạt động chuyên môn hầu như chỉ mang tính chiếu lệ (một sáng kiến kinh nghiệm cấp trường được chi từ 50.000đ-100.000đ), các sinh hoạt chuyên đề, chuyên môn gặp nhiều khó khăn vì thiếu kinh phí.

Giáo dục nước ta cũng đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải từ sự phân tầng xã hội, nhất là ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, khiến cho một bộ phận của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý không làm chủ được mình trước những mặt trái của xã hội.

Tư duy về chỉ đạo giáo dục trong một bộ phận cán bộ quản lý còn chậm đổi mới, vẫn nặng về chỉ đạo, quản lý theo kiểu hành chính, mệnh lệnh, theo tính chất của cơ chế xin-cho, nên ít phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chủ của cơ sở.

Việc rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục thực hiện chưa kịp thời và chưa hiệu quả. Công tác dự báo và quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp chưa được chú trọng đúng mức, dẫn đến tình trạng thừa tổng thể, thiếu cục bộ, hụt hẫng giữa các thế hệ.

Hệ thống văn bản pháp luật cũng như những qui chuẩn về số lượng, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức nhà giáo được xây dựng khá chi tiết, nhưng tác dụng điều chỉnh đối với nhà giáo và cán bộ quản lý lại kém hiệu quả. Công tác thanh tra, giám sát hoạt động của nhà giáo và cán bộ quản lý chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ, chưa thực sự nghiêm minh trong xử lý những hiện tượng, vụ việc vi phạm qui chế chuyên môn và đạo đức nhà giáo.

Các trường, khoa sư phạm chưa thực sự được quan tâm, đầu tư đúng mức, nhất là việc phát triển các trường sư phạm trọng điểm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo đạt chuẩn, trên chuẩn (theo văn bằng) còn nặng về số lượng chưa được quan tâm nhiều đến chất lượng. Chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng còn nặng về lý thuyết, chưa sát thực tế, chưa trang bị cho người học những kỹ năng cần thiết cho công tác dạy học, giáo dục. Công tác đào tạo, bồi dưỡng về tư tưởng chính trị, đạo đức nhà giáo tại các trường, khoa sư phạm còn chưa được quan tâm đúng mức, đôi khi còn bị xem nhẹ, thả nổi.

2. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, của Ban Bí thư tăng cường xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong hoàn cảnh mới của đất nước, cũng như bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi, đòi hỏi tăng cường thực hiện đổi mối căn bản toàn diện GD-ĐT theo tinh thần Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ tám (khóa XI) đã đề ra. Trong đó, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp căn bản nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục - vấn đề then chốt, cốt tử trong GD-ĐT.

Một là, cần bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Nhằm phát triển, ưu đãi, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, khuyến khích họ toàn tâm, toàn trí cho sự nghiệp giáo dục, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn như: Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 11-01-1979 của Bộ Chính trị (khóa IV) về cải cách giáo dục, Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 30-5-1998 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường học; Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 15-6-2004 của Ban Bí thư (khóa IX) về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; Nghị quyết Đại hội XI và gần đây nhất là Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 "về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế".

Hai là, nhận thức đúng vai trò của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Để phát triển giáo dục, cần phải có sự tương hỗ của nhiều yếu tố: nguồn tài chính, nguồn lực con người, cơ sở vật chất, sự hỗ trợ của xã hội. Trong các yếu tố đó, giáo viên và cán bộ quản lý là nhân tố không thể gì thay thế được, họ chính là điều kiện tiên quyết đảm bảo chất lượng giáo dục quốc gia. Mục tiêu chung của nền giáo dục nước ta là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện: có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân. Trong quá trình thực hiện mục tiêu chung, mỗi cấp bậc học, mỗi môn học đều có mục tiêu phù hợp. Nhà giáo là một chủ thể có vai trò quan trọng hàng đầu trong quan hệ giữa người dạy và người học, đây là mối quan hệ trọng tâm của giáo dục; trong môi trường giáo dục.

Ba là, đổi mới căn bản công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý.  Đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục phải hướng tới mục tiêu cung ứng nguồn nhân lực chủ yếu cho sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Cần tổng kết sâu sắc, toàn diện mô hình đào tạo trong các trường, các khoa sư phạm, đồng thời đánh giá, rút kinh nghiệm về một số mô hình đào tạo khác; kết hợp học tập mô hình đào tạo giáo viên từ các nước có nền giáo dục tiên tiến để xây dựng mô hình đào tạo giáo viên phù hợp với điều kiện và yêu cầu hiện nay của đất nước. Đổi mới sâu sắc phương thức đào tạo theo hướng dạy cho nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tương lai biết cách tự tìm kiếm kiến thức, rèn kĩ năng sư phạm, không ngừng tu dưỡng phẩm chất đạo đức nghề giáo, có khả năng thích ứng thực tiễn giáo dục. Đổi mới nội dung, chương trình, phương thức bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý một cách khoa học, bảo đảm tính hiệu quả, thiết thực, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ở từng cấp, bậc học. Công tác bồi dưỡng phải hướng tới sự khuyến khích tính tự giác, tích cực tự học, tự bồi dưỡng, khả năng thích ứng với những biến đổi của giáo dục trong nước và thế giới.

Bốn là, tập trung qui hoạch, nâng cấp các trường, khoa sư phạm, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý. Muốn có đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giỏi, trước hết phải xây dựng mạng lưới trường sư phạm, khoa sư phạm, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý đủ mạnh; vì vậy cần tiến hành một số biện pháp như:  Xác định cấp độ đào tạo giáo viên phù hợp với xu thế phát triển giáo dục của đất nước (từ cao đẳng trở lên). Dự báo về nhu cầu nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên địa bàn toàn quốc, gắn với cấp học, môn học, theo từng vùng, miền, địa phương; từ đó xác định quy mô đào tạo, tuyển dụng, bảo đảm tính phù hợp, khắc phục tình trạng thất nghiệp của sinh viên sư phạm. Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường, khoa sư phạm theo hướng chuẩn hóa trình độ đào tạo, có phương pháp đào tạo hiện đại, có phẩm chất sư phạm thật sự “mô phạm” để giảng dạy và giáo dục sinh viên thành nhà giáo mẫu mực trong tương lai. Tăng cường sự liên kết, phối hợp đào tạo giữa các trường sư phạm, các khoa sư phạm với các trường, các khoa ngoài sư phạm. Nhà nước bảo đảm nguồn ngân sách cho các trường, các khoa sư phạm có thể thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở từng cấp học, bậc học.

Năm là, xây dựng cơ chế, chính sách đặc biệt đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Xây dựng chế độ lương và phụ cấp ưu đãi hợp lý và thảo đáng cho nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Chế độ lương và phụ cấp được tính trên cơ sở hiệu quả công việc nhằm tạo ra tính nỗ lực phấn đấu hết mình của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đối với công việc đảm nhiệm. Xây dựng qui trình tuyển dụng giáo viên, giảng viên, bổ nhiệm cán bộ quản lý giáo dục phù hợp với đặc trưng từng cấp, bậc học, sát thực tế vùng, miền. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, xây dựng các chính sách ưu đãi và chế độ nhà công vụ đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục công tác ở các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn và ở các trường chuyên biệt; quan tâm hơn nữa tới việc đào tạo giáo viên người dân tộc thiểu số.

 

Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là một bộ phận của đội ngũ viên chức và có số lượng lớn. Trong bối cảnh đất nước có nhiều đổi mới, việc phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hoá, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, nâng cao chất lượng, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là vô cùng cần thiết.

Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 15-6-2004 của Ban Bí thư (khóa IX) về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, là chỉ thị có tính chuyên đề chuyên sâu về chủ trương của Đảng đối với phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, góp phần tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đào Nguyên Phúc 
Vụ GD-ĐT&DN Ban Tuyên giáo Trung ương


Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất