EU hiện vẫn là thị trường nhập khẩu quan trọng hàng đầu đối với doanh
nghiệp và hàng Việt Nam thông qua việc gia tăng xuất khẩu một số nông
sản truyền thống, có thế mạnh, như càphê, ca cao, hạt tiêu, điều, tôm.
Sáng 28/6, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Hội
thảo “Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam-EU tới doanh nghiệp
Việt Nam” nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng hiệu quả lợi thế
mà Hiệp định mang lại với các doanh nghiệp ngành nông, thủy sản.
Theo ông Nguyễn Tuấn Hải, Phó Trưởng ban Quan hệ quốc tế VCCI kiêm Giám
đốc Dự án hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu nông thủy sản sang thị trường
Phần Lan và Bắc Âu (Dự án FLC 14-04), Phần Lan nói riêng và các nước Bắc
Âu nói chung có dung lượng thị trường không lớn, đặc biệt lại yêu cầu
các tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng rất khắt khe.
Tuy nhiên, ông Hải cũng cho rằng, đây lại là khu vực rất đáng kể cho các
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư nghiên cứu để thâm nhập. Khi đã chiếm lĩnh
được thị trường này, hiệu quả chắc chắn sẽ không nhỏ với lý do là mùa
đông tại khu vực này kéo dài nên nhu cầu về hàng nông thủy sản rất lớn.
Hơn nữa, một khi được chấp nhận thì các sản phẩm sẽ có giá trị gia tăng
cao vì mức sống của người dân ở Phần Lan và Bắc Âu tương đối cao so với
EU.
Cùng với đó, Chính phủ Phần Lan và Bắc Âu luôn xem Việt Nam là một trong
số ít các quốc gia nhận được sự khuyến khích và hỗ trợ trong việc xúc
tiến xuất khẩu vào thị trường nước này và dự án FLC 14-04 chính là minh
chứng.
Chia sẻ thêm những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp nông thủy
sản của Việt Nam, bà Phùng Thị Lan Phương cho rằng, EU hiện vẫn là thị
trường nhập khẩu quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp và hàng Việt
Nam thông qua việc gia tăng xuất khẩu một số nông sản truyền thống, có
thế mạnh, như càphê, ca cao, hạt tiêu, điều, tôm…; trong đó, Việt Nam
chiếm gần 2/3 giá trị xuất nhập khẩu.
EU cũng là khu vực có tiềm năng và truyền thống rất nổi bật, với sức mua
dồi dào và ổn định nhờ thu nhập bình quân đứng hàng đầu thế giới.
Mặc dù vậy nhưng nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu vào EU
đang giảm dần về số lượng, giá và cả thị phần. Chẳng hạn như đối với sản
phẩm chè, nếu năm 2007, tỷ trọng chè của Việt Nam xuất khẩu vào EU là
20%, song đến tháng 8/2014, chỉ còn khoảng 7%.
Nguyên nhân của sự “tuột dốc” này là do chè Việt Nam trên thị trường EU
không có nhận dạng xuất xứ nguồn gốc, dư lượng hóa chất quá cao. Thương
hiệu chè Việt trên thị trường này lại quá mờ nhạt, không có chứng nhận
trách nhiệm xã hội trong sản xuất.
Hơn nữa, không ít doanh nghiệp xuất khẩu nông sản vẫn còn lúng túng
trước nhu cầu mở rộng thị trường, tăng xuất khẩu nông sản vào EU. Đơn
cử, doanh nghiệp chế biến cà phê vẫn chấp nhận việc bán sản phẩm mới qua
sơ chế hoặc bán thành phẩm, trong khi nhà máy chế biến rau quả lại
không làm chủ được vùng nguyên liệu bên cạnh sự bị động về công nghệ,
thiếu vốn, phương pháp bảo quản lạc hậu hoặc bất lợi về khoảng cách vận
chuyển xa…
Tình trạng doanh nghiệp chấp nhận xuất hàng mới qua sơ chế vẫn khá phổ
biến do thiếu nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào bảo đảm cả về khối
lượng và chất lượng. Điều đó làm giảm cơ hội tăng giá trị gia tăng của
hàng nông sản xuất khẩu cũng như mất cơ hội về việc làm, thu nhập cho
người lao động.
Tại hội thảo, không ít ý kiến từ phía các chuyên gia đều cho rằng, đến
thời điểm này, các doanh nghiệp của Việt Nam vẫn chưa thực sự có sự
chuẩn bị tốt để đón nhận những ưu đãi của Hiệp định Thương mại tự do
(FTA) giữa Việt Nam và EU. Không những thế, khi ký FTA, doanh nghiệp sẽ
có nhiều lợi thế về thuế suất.
Các nông sản nhiệt đới mà Việt Nam có thể xuất khẩu mạnh, như lúa gạo,
rau quả tươi, mật ong, cây thuốc, sữa ong chúa, thủy sản, lúa gạo… sẽ có
cơ hội vào EU rất lớn.
Nếu doanh nghiệp chưa sẵn sàng đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng
sản phẩm, những yêu cầu về trách nhiệm với người tiêu dùng, với xã hội
theo yêu cầu của EU thì sẽ khó có sự bứt phá về xuất khẩu.
Để đẩy mạnh xuất khẩu và đón nhận cơ hội khi ký FTA với EU, bà Cao Thanh
Diệp, Phó Trưởng phòng ASEAN - Vụ Chính sách thương mại Đa biên (Bộ
Công Thương) khuyến cáo, doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt phải tạo
dựng được thương hiệu cho sản phẩm để nâng tính cạnh tranh.
Cùng với đó, doanh nghiệp nên tìm hiểu kỹ thị trường EU, vì ngoài tiêu
chuẩn chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp phải có trách nhiệm với xã hội,
với người tiêu dùng./.
(TTXVN)