(TG) - Mặc dù thời gian qua, tình trạng sức khỏe bà mẹ, trẻ em đã cải thiện rõ rệt nhưng vẫn có sự khác biệt khá lớn về tình trạng sức khỏe, tử vong của bà mẹ, trẻ em giữa các vùng miền, nhóm dân tộc.
Ngày 25/8, tại Hà Nội, Bộ Y tế tổ chức hội thảo phổ biến, lập kế hoạch chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em giai đoạn 2016-2020. Tham dự hội thảo có đại diện lãnh đạo Bộ Y tế, các Sở Y tế, Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh, lãnh đạo bệnh viện đa khoa và chuyên khoa sản, nhi của 30 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc.
Tại hội thảo, đại diện Vụ Sức khỏe Bà mẹ Trẻ em (Bộ Y tế) cho biết: Những năm gần đây, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, sức khỏe sinh sản nói chung đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Các chỉ số về sức khỏe bà mẹ - trẻ em mà Việt Nam đạt được tốt hơn so với các quốc gia có cùng mức thu nhập bình quân/đầu người. Tỷ số tử vong mẹ đã giảm 3 lần từ 233/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 1990 xuống còn 69/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2010. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi đã giảm gần 3 lần từ 44,4% vào năm 1990 xuống còn 14,9% năm 2014. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm hơn một nửa từ 58 phần nghìn vào năm 1990 xuống còn 22,4 phần nghìn năm 2014.
Tuy nhiên các chuyên gia cũng đánh giá: Mặc dù đã cải thiện rõ rệt về tình trạng sức khỏe bà mẹ, trẻ em nhưng vẫn có sự khác biệt khá lớn về tình trạng sức khỏe, tử vong của bà mẹ, trẻ em giữa các vùng miền, nhóm dân tộc. Tử vong trẻ sơ sinh còn cao, chiếm khoảng 70% số tử vong trẻ em dưới 1 tuổi. Tốc độ giảm tử vong mẹ, đặc biệt là tử vong trẻ em trong những năm gần đây đã có xu hướng chậm lại. Tuy tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh đã giảm mạnh nhưng ước tính mỗi năm nước ta vẫn còn khoảng 580-600 trường hợp tử vong mẹ, trên 10.000 trường hợp tử vong trẻ sơ sinh.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc trước, trong và sau sinh của người dân cũng như chất lượng dịch vụ, nhất là ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo còn nhiều hạn chế. Phong tục, tập quán lạc hậu trong chăm sóc, nuôi dưỡng bà mẹ, trẻ sơ sinh, trẻ em, tình trạng phụ nữ có thai không được chăm sóc thai kỳ, đẻ tại nhà không có cán bộ y tế hỗ trợ còn khá phổ biến ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt ở các bệnh viện tuyến huyện chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc điều trị, hồi sức cấp cứu sản khoa và sơ sinh. Nhân lực chuyên ngành sản khoa và nhi khoa rất thiếu, đặc biệt là tại tuyến huyện. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn của nhân viên y tế làm công tác chăm sóc sản khoa, chăm sóc sơ sinh, đặc biệt ở tuyến cơ sở cũng còn những hạn chế trong việc phân loại, phát hiện nguy cơ, tiên lượng, theo dõi, cấp cứu và hồi sức sản khoa, sơ sinh….
Để giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em thời gian qua, Bộ Y tế đã xây dựng và ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em giai đoạn 2016-2020. Theo đó, trong giai đoạn tới, chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em sẽ áp dụng cách tiếp cận chăm sóc liên tục, toàn diện theo vòng đời; ưu tiên các can thiệp giảm tử vong mẹ và tử vong trẻ em. Đồng thời, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ sức khỏe sinh sản có chất lượng, củng cố mạng lưới cấp cứu và điều trị sản khoa, nhi khoa.
Kế hoạch hành động giai đoạn 2016 - 2020 cũng tập trung làm giảm sự khác biệt về tình trạng sức khỏe và tử vong mẹ, tử vong trẻ em giữa các vùng miền, các nhóm đối tượng ưu tiên; cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, trẻ em trọn gói, thiết yếu và hiệu quả, phù hợp với chức năng nhiệm vụ của từng tuyến. Bộ Y tế cũng hướng tới nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ y tế làm công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở các cấp theo hướng chuyên môn hóa. Đồng thời, thu hút cán bộ y tế chuyên ngành sản – nhi làm việc lâu dài tại miền núi và vùng khó khăn./.
Nhật Minh