Theo Hiệp hội lương thực Việt Nam, xuất khẩu gạo trong năm 2013 đạt 6,68
triệu tấn, đạt kim ngạch gần 2,9 tỷ USD, giảm hơn 1 triệu tấn so với
năm 2012.
Tuy nhiên, tổng số gạo thực tế của Việt Nam được bán ra nước ngoài đạt
8,2 triệu tấn, đó là nhờ thông qua xuất khẩu tiểu ngạch (thương mại biên
giới). Để tìm hướng đi cho ngành gạo Việt Nam được khởi sắc hơn trong
năm 2014 là vấn đề chung của cả các bộ, ngành liên quan, các doanh
nghiệp và cả nông dân sản xuất lúa gạo.
Ông Trương Thanh Phong, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, cho biết
sở dĩ gạo Việt Nam gặp khó khăn trên thị trường thế giới là do nhu cầu
nhập khẩu gạo từ các thị trường truyền thống ở Đông Nam Á trong 6 tháng
cuối năm chững lại, Indonesia không nhập khẩu, Philippines và Malaysia
giảm mạnh.
Hơn nữa, lượng gạo của thế giới tồn kho quá lớn, điển hình Thái Lan còn
tồn kho gạo của năm 2013 khoảng 5 triệu tấn, đồng thời lượng gạo tồn kho
của Ấn Độ còn nhiều hơn Thái Lan.
Trong khi thị trường nhập khẩu Châu Á giảm mạnh, thì Việt Nam vẫn có thể
xuất khẩu sang Trung Quốc theo con đường thương mại biên giới, nhưng
thị trường này vẫn không bù đắp được mức giảm, dù gạo được bán đi nhưng
không thu ngoại tệ nhiều như con đường xuất khẩu chính ngạch.
Trong lúc lượng gạo thế giới đang còn tồn kho lớn, giá lại giảm sâu thì
các doanh nghiệp Việt Nam thu mua tạm trữ lúa gạo của nông dân với giá
cao để đảm bảo nông dân có thu lãi 30%. Chính từ giá thu mua này đã làm
cho giá xuất khẩu của Việt Nam bán ra cao, khó cạnh tranh với gạo Thái
Lan và Ấn Độ.
Theo dự báo của các chuyên gia, ngành xuất khẩu gạo vẫn còn gặp khó khăn
trong năm 2014 với nhiều lí do khác nhau. Trong đó, phải kể đến gạo cấp
thấp của Việt Nam không thể cạnh tranh với gạo cấp thấp của Ấn Độ về
giá, và gạo cấp cao của Việt Nam khó vượt qua gạo cấp cao của Thái Lan
về chất lượng. Vì vậy, để hạt gạo Việt Nam có thể vươn ra thế giới suôn
sẻ như trước đây, thì chính ngành gạo cũng phải cần nhiều thay đổi.
Ông Lâm Anh Tuấn, Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn lương thực Thịnh
Phát, Bến Tre cho rằng, ngoài xuất khẩu chính ngạch, thì con đường
thương mại qua biên giới sẽ giúp Việt Nam tiêu thụ hết lượng gạo do
người dân sản xuất.
Mặt khác, với xuất khẩu chính ngạch, nhà nước phải mất hai công đoạn thu
thuế và hoàn thuế cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo và những người mua gạo
làm nguyên liệu chế biến thực phẩm phải thực hiện kiểu thuế chồng thuế
(5% đầu vào và 10% cho đầu ra).
Vì vậy, nhà nước cần có chính sách nghiên cứu, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp được thực hiện xuất khẩu tiểu ngạch trong trường hợp lúa
gạo còn tồn kho khi giá thị trường thế giới xuống quá thấp, làm cho
doanh nghiệp khó bán gạo.
Đồng tình với ý kiến này của ông Lê Anh Tuấn, ông Trương Thanh Phong bày
tỏ, dù trên thực tế, thương mại qua biên giới sẽ gây khó khăn việc lưu
thông hạt gạo, dễ xảy ra gian lận thương mại, rủi ro trong thủ tục hoàn
thuế, quyết toán thuế, quyết toán xuất khẩu,… nhưng trong tình huống cả
thế giới dư thừa lúa gạo, làm cho gạo Việt Nam khó bán ra thì vẫn phải
áp dụng hình thức thương mại này để đảm bảo tiêu thụ hết gạo trong dân.
Ngoài ra, Việt Nam cần xây dựng một thương hiệu gạo và chú trọng vào
chất lượng hạt gạo trong năm 2014, Hiệp hội Lương thực Việt Nam phối hợp
với các viện, trường tuyển chọn lại giống lúa Jasmine 85 làm giống lúa
chính thức phục vụ cho xuất khẩu gạo cấp cao năm 2014, vì những giống
lúa khác không đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của những nhà nhập khẩu.
Nếu gạo Việt Nam được bán ra với giá rẻ mà chất lượng không đảm bảo thì
cũng khó giữ được thị trường.
Cũng trong năm này, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đề xuất với các cơ
quan chức năng địa phương tuyên truyền với người dân, giảm sản xuất loại
gạo cấp thấp (IR 50404), chỉ khoảng 5% tổng diện tích, so với những năm
trước là từ 10%-15% tổng diện tích.
Theo phó giáo sư, tiến sỹ Phạm Văn Dư, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm nay Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn chỉ đạo các địa phương hạn chế tối đa giống lúa cấp
thấp, đặc biệt là trong vụ hè thu, chỉ xuống giống 5% diện tích quy
hoạch, vì giá thành sản xuất khá cao, mà chất lượng hạt lúa tương đối
thấp nên cần chuyển dịch cơ cấu cây trồng từ lúa sang cây bắp, đậu nành,
mè,… để nâng cao thu nhập trên cùng một diện tích canh tác.
Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng khuyến khích
doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu lúa, sản xuất theo chuỗi liên kết
giúp giá trị hạt gạo tăng lên. Tuy nhiên, trong chuỗi này, các nông dân
hợp tác lại là một mắc xích yếu nhất.
“Nhiều năm trước đây, thế mạnh của Việt Nam là xuất khẩu gạo cấp thấp,
nhưng với tình hình thế giới hiện nay, nếu chỉ sản xuất gạo cấp thấp thì
khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới và yêu cầu của một vài
thị trường mới như Mỹ La tinh, Châu Âu… Vì vậy, để gạo Việt Nam được các
nước chấp nhận, một mặt làm lương thực, một mặt làm nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến thực phẩm, thì ngành gạo cần quan tâm nhiều hơn đến
chất lượng hạt gạo.” - bà Dương Phương Thảo, Phó Cục trưởng Cục xuất
nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết.
Bộ Công Thương đang thực hiện công tác xúc tiến thương mại, tiếp cận với
nhiều thị trường mới, mở đường cho ngành xuất khẩu gạo Việt Nam. Qua
quá trình tiếp cận, nhiều nhà nhập khẩu nước ngoài đã thử từng mẫu gạo
đúng như chất lượng họ cần trước khi ký hợp đồng thu mua, đây là điều mà
nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa làm được theo yêu cầu của thị trường.
Bộ Công thương cũng khuyến cáo doanh nghiệp chủ động xây dựng vùng
nguyên liệu để khi cần ký hợp đồng, doanh nghiệp có đủ số lượng gạo đạt
chất lượng theo yêu cầu của đối tác./.
Theo TTXVN