Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà đồng chủ trì hội nghị.
Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, giai đoạn
từ năm 2010 đến nay, ngành sản xuất VLXD Việt Nam đã phát triển không
ngừng và đạt được những thành tựu to lớn trong việc phát triển các cơ sở
sản xuất VLXD, với công nghệ tiên tiến, hiện đại ngang tầm với khu vực
và các nước phát triển trên thế giới; từng bước nâng cao sản lượng và
chất lượng sản phẩm VLXD.
Tất cả các chủng loại sản phẩm VLXD chủ
yếu cơ bản đã thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng của xã hội, đáp ứng yêu
cầu xây dựng trong nước. Một số sản phẩm VLXD đã tham gia vào thị trường
xuất khẩu (xi măng, gạch ốp lát, kính xây dựng, đá ốp lát, vôi…).
Công nghệ sản xuất VLXD ở Việt Nam thời
gian qua đã có những thay đổi rõ rệt, các công nghệ lạc hậu đã và đang
được thay thế bằng công nghệ tiên tiến hiện đại trên hầu hết các lĩnh
vực, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của ngành công nghiệp VLXD, đưa ngành
công nghiệp VLXD từng bước hoà nhập vào trình độ chung của khu vực và
thế giới.
Từ năm 2010 Việt Nam đã sản xuất đủ xi
măng cho nhu cầu nội địa bằng nguồn clinker sản xuất trong nước. Những
năm tiếp theo, để phát huy hiệu quả đầu tư, đồng thời giảm áp lực tiêu
thụ trong nước, Việt Nam đã xuất khẩu clinker và xi măng ra nước ngoài
tạo nguồn thu ngoại tệ để đầu tư mua sắm vật tư, thiết bị.
Hiện nay, theo số liệu thống kê thì Việt
Nam đứng thứ 4 trong 10 nước sản xuất xi măng và clinker nhiều nhất thế
giới. Các sản phẩm xi măng của Việt Nam tương đối đa dạng. Các doanh
nghiệp sản xuất xi măng ở nước ta đã sản xuất được hầu hết các chủng
loại xi măng poóc lăng phục vụ cho nhu cầu xây dựng trong nước.
Về sản lượng, đến năm 2016, cả nước có
80 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất thiết kế là 88,46
triệu tấn xi măng/năm, sản lượng sản xuất đạt trên 75,2 triệu tấn (tăng
49,8% so với năm 2010). Dự kiến đến hết năm 2017 cả nước sẽ có 83 dây
chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất thiết kế 98,56 triệu tấn/năm.
Sản lượng sản xuất gạch ốp lát các loại
(gạch ceramic, granite, cotto) không ngừng tăng nhanh. Năm 2010 sản
lượng sản xuất là 378 triệu m2, thì đến năm 2016, sản lượng sản xuất đã
tăng lên 540 triệu m2 (tăng 50% so với năm 2010), đáp ứng cung cấp đủ
nhu cầu trong nước và xuất khẩu khoảng 20-25% tổng công suất. Công nghệ
và thiết bị, được đầu tư đồng bộ, tiên tiến từ các nước phát triển với
quy mô mỗi nhà máy lên tới hàng chục triệu m2, module công suất mỗi dây
chuyền từ 2 đến 3 triệu m2/năm.
Đối với đá ốp lát tự nhiên đã áp dụng
công nghệ khai thác hiện đại bằng cưa đĩa, cắt dây kim cương, hạn chế
tối đa việc nổ mìn ảnh hưởng tới môi trường và an toàn lao động. Trên cả
nước đã có khoảng 130 cơ sở cưa xẻ đá ốp lát và 25 cơ sở chế biến bột
đá carbonat canxi siêu mịn được đầu tư với năng lực chế biến khoảng 16
triệu m2/năm. Công suất hoạt động thực tế đạt khoảng 60-70% công suất
thiết kế.
Đến hết năm 2016, tổng công suất thiết
kế các nhà máy sản xuất sứ vệ sinh đạt 14,7 triệu sản phẩm/năm (tăng 40%
so với năm 2010), đáp ứng cung cấp đủ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến, mức độ tự động hóa cao, tiêu hao
ít nhiên liệu, chủng loại sản phẩm đạt chất lượng cao, đa dạng về hình
dáng, kích thước, mẫu mã, màu sắc và đặc tính sử dụng; nhiều loại sản
phẩm đạt trình độ công nghệ của các nước tiến tiến hàng đầu trong lĩnh
vực này. Năng lực sản xuất trong nước hiện có đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ở
trong nước và xuất khẩu đạt khoảng 30-35% công suất thiết kế.
Về kính xây dựng, tổng công suất sản
xuất kính phẳng hàng năm của các nhà máy đang sản xuất trong nước ước
đạt 4.080 tấn/ngày tương đương 285 triệu m2 quy tiêu chuẩn (QTC)/năm,
trong đó kính nổi là 3.550 tấn/ngày tương đương 248 triệu m2 QTC (có 7
nhà máy) và kính cán là 530 tấn/ngày tương đương 37 triệu m2 QTC. Ngoài
các nhà máy đang sản xuất, hiện tại có 5 dự án kính nổi đang đầu tư với
tổng công suất 2.600 tấn/ngày tương đương 182 triệu m2 QTC/năm. Như vậy,
khi 5 dự án trên đi vào sản xuất, tổng công suất sản xuất kính phẳng ở
Việt Nam sẽ là 6.680 tấn/ngày tương đương 466 triệu m2 QTC/năm.
|
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng thăm các gian trưng bày VLXD. Ảnh: VGP/Nhật Bắc
|
Thực hiện Chương trình phát triển vật liệu xây không nung theo Quyết
định số 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ (Chương trình
567), thời gian qua, hầu hết các địa phương đã có những chỉ đạo quyết
liệt trong việc xóa bỏ các lò gạch thủ công, thủ công cải tiến và lò
vòng sản xuất gạch đất sét nung cũng như khuyến khích phát triển sản
xuất và tiêu thụ vật liệu xây không nung. Đặc biệt tại một số địa phương
đã xóa bỏ hoàn toàn lò gạch thủ công như: Bắc Ninh, Bình Dương, TPHCM…
Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp tư nhân cũng đã tích cực chủ động hưởng ứng chủ trương của Chính
phủ, chủ động tìm hiểu công nghệ, đầu tư sản xuất, cung cấp cho thị
trường nhiều sản phẩm vật liệu xây không nung đạt chất lượng, từng bước
đa dạng hóa các sản phẩm vật liệu xây không nung.
Đến hết năm 2016, tổng công suất thiết
kế của 3 loại sản phẩm chính đã đạt khoảng 7 tỷ viên QTC/năm, sản xuất
đạt 6,5 tỷ viên, chiếm khoảng 28% so với tổng sản lượng vật liệu xây
năm 2016 ước khoảng 24 tỷ viên.
Như vậy, chương trình đã đạt mục tiêu đề
ra “Phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung thay thế
gạch đất sét nung đạt tỷ lệ 20-25% vào năm 2015”. Tuy nhiên, tiến độ,
chất lượng thực hiện chương trình chưa đáp ứng yêu cầu, số lượng và
chủng loại vật liệu xây không nung chưa nhiều, chưa đa dạng, chưa được
sử dụng rộng rãi…
Các ý kiến thảo luận tại hội nghị cũng cho rằng, sản xuất vật liệu
xây dựng truyền thống hiện nay tại nước ta tiêu tốn nguồn nguyên liệu,
năng lượng lớn và góp phần gây ô nhiễm môi trường. Do đó, việc nghiên
cứu cải tiến công nghệ sản xuất và phát triển các loại vật liệu xây dựng
giảm tiêu hao nguyên liệu, năng lượng, thân thiện môi trường là điều
cấp thiết hiện nay.
Trong thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ tăng
cường chỉ đạo các đơn vị liên quan tiếp tục nghiên cứu, đổi mới công
nghệ như sản xuất xi măng tiết kiệm năng lượng; sản xuất kính tiết kiệm
năng lượng sử dụng trong tòa nhà; các chất phủ chống bám bẩn trên các
vách dựng kính, vật liệu ốp lát trên các công trình; cải tiến công nghệ
giảm tiêu hao năng lượng trong sản xuất kính và gạch gốm ốp lát và sứ vệ
sinh; sản xuất các loại vật liệu mới, vật liệu không nung thay thế gạch
đất sét nung trong xây dựng tiết kiệm tài nguyên, thân thiện với môi
trường; sử dụng tối đa các loại chất thải của các ngành công nghiệp để
sản xuất vật liệu xây dựng..../.
Theo chinhphu.vn