LTS: Chính phủ vừa ban hành các Nghị quyết 01 và Nghị quyết 02 năm 2019, trong đó nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, hiện đại, hội nhập, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo và phát triển; phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Báo điện tử Chính phủ xin giới thiệu bài viết của GS. TS. Nguyễn Quang Thuấn, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, nguyên Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam về vai trò của nhà nước đối với việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phong trào khởi nghiệp.
BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM
Trong khoảng hơn 20 năm qua, Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với nền kinh tế toàn cầu, được thể hiện qua việc giá trị xuất nhập khẩu tăng nhanh và khu vực FDI đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Cơ cấu xuất nhập khẩu thay đổi phản ánh Việt Nam gia tăng sự tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu và mạng sản xuất khu vực.
Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp tư nhân trong nước có quy mô nhỏ và chủ yếu phục vụ thị trường trong nước. FDI đã mang lại những lợi ích to lớn cho Việt Nam về tăng trưởng, xuất khẩu và việc làm, nhưng ít xuất sắc hơn trong việc phát triển mối liên kết với nền kinh tế trong nước. Điều này dẫn đến giá trị gia tăng được tạo ra ở trong nước, đặc biệt là được tạo ra bởi các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam còn rất thấp và mạng lưới các nhà cung cấp nội địa còn rất yếu.
Với sự cạnh tranh ngày càng tăng trên toàn cầu, và tham vọng tiến lên cao hơn trong các chuỗi giá trị, Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều để giải quyết điểm yếu này, qua đó có thể khai thác tối đa vị thế hiện tại của mình trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Theo nhiều nghiên cứu, sự tham gia hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam vào các chuỗi giá trị toàn cầu có nguyên nhân cơ bản là năng lực công nghệ còn thấp, dẫn đến năng suất lao động cũng như giá trị gia tăng thấp do chủ yếu chỉ thực hiện khâu gia công lắp ráp. Như vậy điểm then chốt để giúp các doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt tốt hơn các cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại là nâng cao năng lực công nghệ và tinh thần đổi mới sáng tạo.
Trong khi đó, cách mạng công nghệ tăng tốc, thế giới đang bước vào kỷ nguyên số tạo ra những cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc cạnh tranh toàn cầu.
Những đột phá công nghệ đang vẽ lại bản đồ kinh tế thế giới có lợi cho các nền kinh tế ‘thâm dụng” công nghệ gắn với cuộc cách mạng số (cốt lõi của CMCN 4.0), và làm giảm vị thế của các nền kinh tế ‘thâm dụng” tài nguyên khoáng sản hay ‘thâm dụng” lao động, trong đó có nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Dưới sự tác động của quá trình số hóa và tự động hóa tăng tốc, đã bắt đầu có sự hồi hương trở lại các nước phát triển của các nhà máy gia công lắp ráp để gần với khâu nghiên cứu thiết kế (trước sản xuất) và thị trưởng tiêu thụ (khâu sau sản xuất). Đây là một nguyên nhân hết sức quan trọng dẫn đến một xu hướng mới trong thương mại toàn cầu: sự co lại của các chuỗi giá trị toàn cầu nói riêng cũng như sự giảm tốc của thương mại hàng hóa và đầu tư toàn cầu nói chung – hai động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế toàn cầu mà cho đến nay Việt Nam đã được hưởng lợi rất nhiều từ hai xu hướng này.
Tuy nhiên, thương mại dịch vụ, đặc biệt là thương mại dịch vụ dữ liệu gia tăng mạnh mẽ - lĩnh vực mà Việt Nam hiện nay còn rất yếu, song nếu nhìn ở góc độ tích cực thì đây là cơ hội lớn mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm bắt. Một xu hướng mới khác mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm bắt là quá trình “dịch vụ hóa” công nghiệp và nông nghiệp dưới tác động của quá trình số hóa, khi dịch vụ đang tích hợp ngày càng nhiều trong các sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp. Trong tương lai, động lực chính của quá trình công nghiệp hóa chính là ngành dịch vụ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo dựa trên dữ liệu lớn đang bùng nổ trên cơ sở Internet kết nối vạn vật đang phát triển nhanh chóng.
Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) tăng tốc và tạo nguy cơ các việc làm có kỹ năng đơn giản và lặp đi lặp lại bị mất đi do tự động hóa trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, thì phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam có mức độ sẵn sàng đối với cuộc CMCN 4.0 còn thấp. Điều này càng khẳng định tầm quan trọng của việc tạo ra hệ sinh thái giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực công nghệ và tinh thần đổi mới sáng tạo.
Dựa trên các lý thuyết về các giai đoạn phát triển cùng với việc phân tích thực nghiệm số liệu của nhiều quốc gia trong một giai đoạn dài, Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới phân loại các nước thành ba nhóm theo trình độ phát triển tăng dần, được đo bằng mức thu nhập bình quân đầu người (WEF 2014).
WEF 2014 đã nêu các phương thức chủ yếu tạo ra tăng trưởng trong từng giai đoạn phát triển.
Giai đoạn 1: gia tăng huy động sử dụng nguồn lực (factor-driven), do các nền kinh tế ở trong giai đoạn phát triển thấp này mọi yếu tố đầu vào truyền thống như lao động, đất đai, tài nguyên khoáng sản còn tương đối rẻ nên cạnh tranh chủ yếu dựa trên cơ sở gia tăng huy động các yếu tố sẵn có này, trong đó có lao động ít kỹ năng và tài nguyên thiên nhiên. Trong giai đoạn này, 4 trụ cột đầu (trong tổng số 12 trụ cột dùng để tính chỉ số phản ánh năng lực cạnh tranh quốc gia) thể hiện những yêu cầu cơ bản của tăng trưởng đóng vai trò quan trọng: (i) các thể chế công và tư; (ii) hạ tầng cơ sở; (iii) ổn định kinh tế vĩ mô; (iv) lực lượng lao động với trình độ giáo dục ở cấp phổ thông.
Giai đoạn 2: nâng cao hiệu quả (efficiency-driven), do trong giai đoạn này, tiền lương và thu nhập gia tăng, các yếu tố đầu vào khác cũng trở nên đắt đỏ hơn nhiều trong khi khó tăng được giá bán nên các nền kinh tế này phải nâng cao hiệu quả của sản xuất và chất lượng của sản phẩm. Trong giai đoạn này, 5 trụ cột tiếp theo (từ 5 đến 10) đóng vai trò quan trọng: (i) giáo dục và đào tạo ở cấp độ sau phổ thông; (ii) thị trường hàng hóa hiệu quả; (iii) thị trường lao động hiệu quả; (iv) thị trường tài chính phát triển; (v) năng lực áp dụng công nghệ sẵn có; (vi) thị trường (cả trong nước và quốc tế) rộng lớn.
Giai đoạn 3: đổi mới sáng tạo (innovation-driven), do trong giai đoạn này, tiền lương và thu nhập rất cao nên các nền kinh tế này phải sản xuất những sản phẩm mới và khác biệt dựa trên phát triển công nghệ để có thể duy trì được khả năng cạnh tranh. Trong giai đoạn này, 2 trụ cột cao nhất (từ 11 đến 12) đóng vai trò quan trọng: (i) sản xuất được các sản phẩm khác biệt; (ii) sáng tạo ra những sản phẩm và công nghệ mới.
Tuy nhiên, ở bất cứ một giai đoạn phát triển nào thì cả ba phương thức này cùng hoạt động đồng thời, chỉ có sự khác biệt về tầm quan trọng tương đối, tức là trong tương quan so sánh với các phương thức còn lại.
Theo Khung phân tích này, vào năm 2021, với thu nhập bình quân đầu người được dự báo khoảng trên 3.000 USD, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn 2 với các động lực của tăng trưởng chủ yếu dựa trên gia tăng hiệu quả sử dụng và phân bổ nguồn lực, kết hợp với nâng cao năng lực công nghệ và nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo. Những thể chế và chính sách ưu tiên trong giai đoạn này cũng khác nhiều so với các thể chế và chính sách đã giúp Việt Nam đạt được nhiều kết quả trong giai đoạn 1 của quá trình phát triển, với động lực chính khi đó là gia tăng huy động nguồn lực – lao động, tài nguyên và vốn.
DOANH NGHIỆP VIỆT TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ
Năng suất của khu vực doanh nghiệp – yếu tố đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn 2 và giai đoạn 3, có thể tăng lên thông qua 3 cơ chế:
(i) phân bổ lại nguồn lực từ các doanh nghiệp kém hiệu quả sang cho các doanh nghiệp hiệu quả;
(ii) tăng năng suất nội tại trong từng doanh nghiệp; và
(iii) các doanh nghiệp có năng suất cao nhập cuộc thay thế các doanh nghiệp năng suất thấp kém hiệu quả.
Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (Cusolito and Maloney 2018) cũng chỉ ra là các thể chế nền tảng thúc đẩy cạnh tranh, xóa bỏ các méo mó trong nền kinh tế, đẩy mạnh hội nhập tác động, giải quyết các thất bại của thị trường… có tác động tích cực đến năng suất thông qua cả 3 phương thức này. Trong khi đó các thể chế để thúc đẩy công nghệ, đổi mới sáng tạo, kỹ năng, tinh thần khởi nghiệp tác động thúc đẩy tăng trưởng năng suất nội tại ở cấp độ doanh nghiệp cũng như sự nhập cuộc của các doanh nghiệp sáng tạo có năng suất cao.
Liên quan đến nâng cao năng lực công nghệ và khuyến khích đổi mới sáng tạo, báo cáo trên của Ngân hàng Thế giới cùng đưa ra một khung phân tích dựa trên cung và cầu đối với các hoạt động này để làm cơ sở cho việc xây dựng thể chế và chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo của một quốc gia.
Các cấu phần chính tạo nên nguồn cung cho các hoạt động đổi mới sáng tạo: Thứ nhất, đó là sự phát triển các ngành thượng nguồn sản xuất các máy móc, thiết bị cũng như công nghệ (đi kèm hoặc không đi kèm máy móc thiết bị) cùng như nhập khẩu từ nước ngoài hay thông qua nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ hai, đó là vốn con người, với kiến thức và kỹ năng nhận được từ hệ thống giáo dục, đào tạo (chính thức hoặc phi chính thức, tức là học thông qua làm, học tập suốt đời) cũng như sự hỗ trợ kỹ năng kinh doanh của các trường đại học, các hiệp hội với sự khuyến khích của Nhà nước).
Còn các yếu tố tác động đến “cầu” đối với đổi mới sáng tạo: tại sao có các doanh nghiệp (hay doanh nhân) lại muốn thực hiện áp dụng hay sáng tạo công nghệ hay các đổi mới sáng tạo phi công nghệ (tạo ra và ứng dụng mô hình kinh doanh mới cũng giúp tăng năng suất mặc dù không tạo ra công nghệ mới). Sự ổn định kinh tế vĩ mô là hết sức cần thiết vì trong một nền kinh tế bong bóng, các hoạt động đầu cơ hút các nguồn lực (nhân lực, tài lực…) ra khỏi nền kinh tế thực nói chung và các hoạt động sáng tạo hay ứng dụng công nghệ nói riêng.
Mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng đóng vai trò quan trọng: tình trạng độc quyền không khuyến khích đổi mới sáng tạo (do đạt được lợi nhuận độc quyền nên doanh nghiệp không có động lực), và tình trạng cạnh tranh thái quá cũng có tác động bất lợi đến đổi mới sáng tạo (do biên lợi nhuận quá nhỏ làm cho doanh nghiệp không đủ nguồn lực, nhất là ở các ngành không có tiềm năng tăng trưởng cao).
Các yếu tố vĩ mô khác như sự biến động của doanh số, cơ cấu cạnh tranh và chế độ thương mại quyết định việc các doanh nghiệp có tìm cách thâm nhập thị trường hay theo đuổi chiến lược tăng trưởng hay không, qua đó cũng có tác động đến các hoạt động liên quan đến ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp. Các hoạt động liên quan đến mở rộng thị trường như phát triển hoặc kết nối với các nền tảng kỹ thuật số làm giảm chi phí tìm kiếm, chi phí kết nối cung cầu và chi phí giao dịch thông tin khi tham gia xuất nhập khẩu; việc thiết lập mạng lưới thương mại trong nước hoặc quốc tế; hoặc chính sách mua sắm cũng tác động đến đổi mới sáng tạo.
Các nhóm yếu tố khác có tác động đến nhu cầu đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp bao gồm: (i) năng lực doanh nghiệp, trong đó có năng lực cốt lõi; hệ thống sản xuất và công nghệ; năng lực đánh giá rủi ro – đây là yếu tố quan trọng vì đầu tư công nghệ và đổi mới sáng tạo có mức độ rủi ro cao, đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán đầy đủ lợi ích cũng như rủi ro để có sự so sánh khoa học trước khi đưa ra quyết định đầu tư cũng như xây dựng các phương án phù hợp; (ii) các đặc điểm của doanh nhân: sự quyết tâm; khả năng chịu rủi ro; năng lực phát hiện cơ hội – đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Có những tương tác giữa bên cung và bên cầu đối với đổi mới sáng tạo, chỉ ra những rào cản đối với sự kết nối cung cầu này. Đó là:
- Các rào cản đối với việc tích lũy, phân bổ nguồn lực bao gồm sự thiếu vắng thị trường vốn và các cơ chế chia sẻ rủi ro; rào cản đối với nhập cuộc/rút lui khỏi thị trường; môi trường kinh doanh, khuôn khổ điều tiết; mức độ thiệt hại khi thất bại (phá sản, kỳ thị).
- Rào cản đối với việc tích lũy tri thức (ứng dụng và phát minh công nghệ): sự cứng nhắc của thị trường lao động; sự thiếu vắng của nguồn vốn đầu tư mạo hiểm; năng lực đổi mới sáng tạo và sự tự phát hiện; cơ chế lan tỏa công nghệ.
VAI TRÒ CỈA NHÀ NƯỚC
Các phân tích ở trên cho thấy vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc thúc đẩy kết nối cung cầu thông qua việc giám sát và giải quyết các khuyết tật của thị trường nhằm thúc đẩy hệ thống đổi mới sáng tạo. Với vai trò đặc biệt quan trọng của hệ thống đổi mới sáng tạo đối với nền kinh tế của chúng ta (và vị trí trung tâm của doanh nghiệp trong hệ thống đó) để có thể nhanh chóng thoát ra khỏi bẫy thu nhập trung bình (mà chỉ số ít các quốc gia ở Đông Á thành công) trong giai đoạn sắp tới, Chính phủ cần phải có những bước đi mạnh mẽ theo định hướng nâng cao tinh thần khởi nghiệp và thúc đẩy phong trào khởi nghiệp.
Cụ thể, xây dựng thể chế kinh tế xã hội tạo thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức hoàn thiện hệ thống luật pháp cho phép dòng tri thức được tự do dịch chuyển, hỗ trợ sự phát triển của KHCN, khuyến khích xây dựng và làm chủ các doanh nghiệp. Nhà nước cần tạo thể chế chính thức điều chỉnh sự hình thành và phát triển của đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp từ việc hoàn thiện các bộ luật có liên quan trực tiếp đến sáng tạo và khởi nghiệp đến các quy định theo phương thức mới như công nhận giá trị bằng tiền của tài sản vô hình trong góp vốn thành lập công ty, bảo vệ sở hữu trí tuệ đối với doanh nghiệp khởi nghiệp…
Chú trọng giáo dục, đào tạo hướng tới sáng tạo. Xây dựng hệ thống giáo dục và đào tạo chất lượng cao để người dân được giáo dục và đào tạo tốt về KHCN, năng lực sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển. Đó là nguồn nhân lực có chất lượng cao cung cấp cho các công ty khởi nghiệp. Muốn vậy, cần phải thay đổi toàn diện và căn bản giáo dục và đào tạo từ cấp tiểu học và chú trọng cấp đại học để Việt Nam có một nguồn nhân lực vừa có tinh thần khởi nghiệp, vừa có năng lực sáng tạo và dũng khí chấp nhận mạo hiểm.
Hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin, KHCN gồm liên lạc viễn thông, kết nối internet chất lượng cao cho phép dễ dàng liên lạc, truyền bá, và xử lý thông tin. Đây là nền tảng quan trọng cho khởi nghiệp, không chỉ đối với các công ty khởi nghiệp về công nghệ thông tin mà tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề khác.
Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo: Hoàn thiện mạng lưới gồm các viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp tư nhân, chuyên gia tư vấn, vườn ươm khởi nghiệp, các nhóm cộng đồng… để tiếp thu và phân tích, xử lý tri thức toàn cầu về khởi nghiệp. Các thông tin được xử lý này có thể được áp dụng trên thực tế gắn với điều kiện, đặc điểm cụ thể của doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam.
Cũng rất cần có cơ chế tài chính để dẫn vốn cho các công ty khởi nghiệp. Hiện có 3 loại hình quỹ hỗ trợ tài chính cho các công ty khởi nghiệp đó là quỹ hỗ trợ Nhà nước, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ tín dụng ngân hàng. Trong 3 loại hình hỗ trợ trên, Chính phủ nên chủ trương giảm dần nguồn quỹ hỗ trợ nhà nước (nguồn tài chính hỗ trợ), quỹ tín dụng ngân hàng (nguồn tài chính tín dụng) và tăng cường quỹ đầu tư mạo hiểm (nguồn tài chính rủi ro cao). Hỗ trợ tài chính ở đây cần được hiểu là phải tạo cơ chế về tài chính để hình thành các quỹ theo đúng quy luật thị trường chứ không nhất thiết phải tăng cường nguồn tài chính từ ngân sách để hỗ trợ.
Có thể tham khảo mô hình thu hút vốn đầu tư cho khởi nghiệp từ sản giao dịch chứng khoán của Hàn Quốc, Đài Loan… đã phát triển sàn giao dịch chứng khoán dành cho các start-up, giúp các công ty khởi nghiệp huy động vốn trực tiếp từ xã hội và từ nước ngoài. Ví dụ mô hình sàn giao dịch KONEX của Hàn Quốc dành cho các start-up đã thành công sau hơn 2 năm vận hành.
Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, thuận lợi hóa và giảm thiểu tối đa các chi phí liên quan đến các thủ tục hành chính cho hoạt động khởi nghiệp nhằm giữ chân được các doanh nghiệp có tiềm năng không ra nước ngoài đăng ký hoạt động kinh doanh (như đã xảy ra với một số công ty khởi nghiệp CNTT sang Singapore đăng ký hoạt động).
Các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp như thẩm định công nghệ, thẩm định giá, tư vấn pháp lý liên quan (bảo hộ sở hữu trí tuệ, góp vốn, huy động vốn) cũng cần được thúc đẩy nhằm tạo ra hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp.
Một bệ đỡ mang tính “an sinh” cho doanh nghiệp khởi nghiệp cũng cần được thiết lập nhằm tạo nên tâm lý an tâm cho các cá nhân chấp nhận rủi ro, thất bại khi khởi nghiệp như hoàn thiện Luật Phá sản (không chỉ quan tâm đến lợi ích của chủ nợ, mà còn đến con nợ với tư cách là người chấp nhận rủi ro trong kinh doanh) tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể quay trở lại hoạt động sau khi thất bại trong kinh doanh thông qua các thủ tục thanh lý tài sản hoặc phục hồi hoạt động (như mô hình Luật Phá sản của Mỹ)./.
GS. TS. Nguyễn Quang Thuấn