Tiếp cận chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden
Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Tổng thống Indonesia Jokowi tại Hội nghị Thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) ở Indonesia. (Ảnh: backpanel.kemlu.go.id)
ĐIỀU CHỈNH VÀ THÍCH ỨNG VỀ CHIẾN LƯỢC

Mặc dù chiến lược tổng thể đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden công bố tương đối muộn - một năm sau khi lên nắm quyền, song những nội dung của chiến lược đã phản ánh sự quan tâm và gắn kết sâu sắc hơn của Mỹ đối với khu vực. Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được công bố ngày 12/2/2022, khẳng định năm mục tiêu mà Mỹ theo đuổi(1):  

Một là, thúc đẩy một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở, nhấn mạnh sự ủng hộ quyền tự quyết và tự chủ phù hợp với luật pháp quốc tế của các chính phủ trong khu vực, cũng như sự quản lý hợp pháp vùng biển, vùng trời và các không gian chung được quản lý hợp pháp.

Hai là, xây dựng kết nối trong và ngoài khu vực. Điều này đồng nghĩa với việc Mỹ thúc đẩy năng lực tập thể bằng cách xây dựng mạng lưới các liên minh mạnh mẽ và hỗ trợ lẫn nhau tại khu vực. Trong đó, nhấn mạnh vào 5 đồng minh hiệp ước của Mỹ là Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan; đồng thời, bao gồm các đối tác hàng đầu của Mỹ tại khu vực.

Ba là, thúc đẩy sự thịnh vượng của khu vực. Chiến lược nhấn mạnh việc Mỹ đưa ra một khuôn khổ kinh tế cho khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, hỗ trợ các nền kinh tế khu vực nhanh chóng khai thác, chuyển đổi công nghệ, bao gồm cả nền kinh tế kỹ thuật số, thích ứng với quá trình chuyển đổi năng lượng và khí hậu.

Bốn là, tăng cường an ninh ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Mỹ cam kết duy trì sự hiện diện quốc phòng để hỗ trợ hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng tại khu vực.

Năm là, xây dựng khả năng phục hồi của khu vực đối với các mối đe dọa xuyên quốc gia. Nhấn mạnh cam kết của Mỹ hỗ trợ các quốc gia trong khu vực ứng phó với khủng hoảng khí hậu, chấm dứt đại dịch COVID-19 và các mối đe dọa chung. 

Những mục tiêu mà Tổng thống Mỹ Joe Biden hướng đến tại khu vực cho thấy sự tiếp nối quan điểm của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump đã được nêu cụ thể trong các chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương do Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mỹ ban hành năm 2019(2). Theo đó, Mỹ nêu cao sự ủng hộ quyền tự do, không bị ép buộc của các quốc gia trong khu vực và quyền tiếp cận mở đối với các vùng biển, vùng trời và các không gian chung khác như không gian mạng; thúc đẩy sự thịnh vượng kinh tế của khu vực thông qua các lĩnh vực hạ tầng cơ sở, năng lượng, kết nối số; tăng cường các quan hệ đồng minh, đối tác, củng cố các thể chế và kết nối khu vực; ứng phó với các nguy cơ an ninh truyền thống cũng như an ninh phi truyền thống. 

Mặc dù có sự tương đồng về mục tiêu, nhưng cách tiếp cận của Tổng thống Mỹ Joe Biden đối với khu vực vẫn có sự khác biệt. Điều này cho thấy sự điều chỉnh và thích ứng về chiến lược của Mỹ trước những thách thức đặt ra sau một giai đoạn thực thi tầm nhìn Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trước tiên, Tổng thống Mỹ Joe Biden khẳng định tầm quan trọng của sự tương tác và phối hợp với các quốc gia trong khu vực để đạt được các mục tiêu chung. Mỹ sẽ không nhìn về châu Á đơn thuần như một đấu trường cạnh tranh địa - chính trị, mà là cách tiếp cận của những nước đồng minh của Mỹ trong khu vực (cụ thể là của Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc,...). Mỹ cũng nhấn mạnh vào mục đích không chỉ nhằm tăng cường vai trò của mình, mà còn củng cố và hướng đến lợi ích chung của khu vực. Những mục tiêu đặt ra cần có sự hợp tác giữa các nước có chung tầm nhìn trong khu vực. Vai trò của các đồng minh, đối tác được đề cao, quyết định sự thành công của các mục tiêu. Điều này đã được minh chứng qua một loạt động thái của Tổng thống Mỹ Joe Biden kể từ khi nắm quyền nhằm củng cố và tăng cường với các nước đồng minh và đối tác tại khu vực, cũng như sự tái tham gia của Mỹ vào các diễn đàn và các tiến trình đa phương tại đây.

Ngoài ra, chính sách của Tổng thống Mỹ Joe Biden cho thấy sẽ phát triển một mối quan hệ “toàn diện” với các đối tác trong khu vực, chứ không chỉ tập trung vào khía cạnh an ninh. Sáng kiến Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF)(3) được đưa ra nhằm bù đắp cho việc thiếu vắng một khuôn khổ hợp tác kinh tế toàn diện của Mỹ tại khu vực sau khi chính quyền tiền nhiệm rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) do chính Mỹ khởi xướng. Các quan tâm của Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng hướng vào việc hỗ trợ khu vực phục hồi sau đại dịch COVID-19, viện trợ vaccine, tăng cường hợp tác y tế, chống biến đổi khí hậu và đẩy mạnh hợp tác giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống khác. Cách tiếp cận của Mỹ đang tiệm cận hơn với lợi ích và sự quan tâm của các quốc gia trong khu vực, vốn luôn theo đuổi một mối quan hệ cân bằng và toàn diện hơn với Mỹ.

Trong quan hệ với khu vực Đông Nam Á, Tổng thống Mỹ Joe Biden tiếp tục xác định “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là trung tâm của kiến trúc Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” và cam kết sẽ “ủng hộ ASEAN với tư cách là một tổ chức mạnh mẽ, độc lập, dẫn đầu ở khu vực(4).

Trên thực tế, quan điểm đặt ASEAN vào vị trí trung tâm của Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đã được đưa ra dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ Donald Trump, khi đó Mỹ xác định “ASEAN đóng vai trò là xương sống của chính trị khu vực” và bày tỏ sự ủng hộ đối với sự ổn định và thịnh vượng của Đông Nam Á. Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump từng khẳng định tầm quan trọng của các mối quan hệ đồng minh với Thái Lan và Philippines, cũng như các đối tác ưu tiên của Mỹ tại khu vực là Indonesia, Malaysia, Singapore... Bên cạnh việc bảo đảm hỗ trợ cho các nước ASEAN một cách toàn diện, từ năng lượng, an ninh mạng, thương mại kỹ thuật số đến thúc đẩy hoạt động kinh doanh, chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng đã cam kết tham gia tích cực các thể chế của ASEAN như Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+). Dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ Joe Biden, vai trò của ASEAN đối với an ninh và thịnh vượng của khu vực tiếp tục được đề cao, là động lực dẫn dắt các diễn đàn quan trọng như EAS, ADMM+, ARF và Diễn đàn Hàng hải ASEAN mở rộng (EAMF)(5). Đặc biệt, Tổng thống Mỹ Joe Biden mong muốn đẩy mạnh và nâng cấp các quan hệ đối tác trong khu vực. Tháng 5/2022, Mỹ đã tiếp đón 10 nước ASEAN tại Thủ đô Washington trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 45 năm quan hệ giữa hai bên. Tại đây, quan hệ Mỹ - ASEAN đã được thống nhất nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 11/2022(6)

Bên cạnh đó, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã gửi thông điệp rằng Mỹ sẽ tôn trọng chính sách và lựa chọn của các nước ASEAN, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong các vấn đề khu vực. Cách tiếp cận này cho thấy Mỹ nhận thức rõ quyết tâm của các quốc gia Đông Nam Á mong muốn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, tự quyết, cân bằng và không muốn bị lôi kéo vào cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực. Theo đó, Mỹ tôn trọng và ủng hộ những mong muốn của các nước trong khu vực trở thành một Cộng đồng ASEAN mạnh mẽ, độc lập và dẫn đầu, hay một khu vực Đông Nam Á hòa bình, không có vũ khí hạt nhân... Việc Mỹ đang đứng từ góc độ các nước ASEAN để xây dựng chính sách khu vực của mình được cho là sự bảo đảm của mối quan hệ song phương gắn kết và bền vững hơn trong tương lai.

Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng lãnh đạo các nước ASEAN tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ - ASEAN tại Nhà Trắng, ngày 12/5/2022. (Ảnh: AFP/TTXVN)

THÚC ĐẨY NHỮNG TRỤ CỘT HỢP TÁC TRONG GIAI ĐOẠN TỚI

Về hợp tác kinh tế

Trụ cột kinh tế vẫn được đánh giá là một điểm hạn chế trong chính sách Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ. Dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump, Mỹ đã rút khỏi TPP mà không đưa ra phương án thay thế. Đồng thời, Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng theo đuổi một chương trình nghị sự thương mại song phương, đi ngược lại với cách tiếp cận của các quốc gia trong khu vực vốn theo đuổi chủ nghĩa đa phương và liên kết để cân bằng với các nước lớn trong hoạt động thương mại. Điều này, theo nhận định của nhiều chuyên gia, đã làm hạn chế kết quả của hợp tác thương mại giữa Mỹ và các nước trong khu vực.

Cách tiếp cận kinh tế đa phương đã quay trở lại dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden. Tháng 10/2021, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã đưa ra sáng kiến IPEF. Đến tháng 5/2022, nội dung của sáng kiến được xác định, theo đó, khuôn khổ kinh tế đa phương bao trùm toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tập trung vào bốn trụ cột chính(7): 1) Nền kinh tế kết nối: Nhấn mạnh vào việc Mỹ tham gia toàn diện với các đối tác về nhiều vấn đề trong lĩnh vực thương mại và theo đuổi các quy tắc tiêu chuẩn cao về nền kinh tế kỹ thuật số. Mỹ cũng hướng đến các chuẩn mực mạnh mẽ về lao động và môi trường, các điều khoản truy cứu trách nhiệm của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy cuộc cạnh tranh về thương mại; 2) Nền kinh tế phục hồi: Mỹ hướng đến các cam kết về chuỗi cung ứng thông qua việc thiết lập một hệ thống cảnh báo sớm, cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc trong các lĩnh vực chủ chốt và phối hợp để đa dạng hóa chuỗi cung ứng; 3) Nền kinh tế sạch: Mỹ ưu tiên các cam kết về năng lượng sạch, trung hòa carbon và kết cấu hạ tầng; 4) Nền kinh tế công bằng: Mỹ tìm kiếm những cam kết để ban hành và thực thi những cơ chế về thuế, chống rửa tiền và chống hối lộ hiệu quả, phù hợp với các nghĩa vụ đa phương hiện có của Mỹ nhằm thúc đẩy một nền kinh tế công bằng.

Như vậy, mặc dù IPEF không phải là một thỏa thuận thương mại tự do truyền thống với khả năng tiếp cận thị trường như các nước ASEAN mong muốn, nhưng vẫn có thể tìm thấy những điểm hợp tác nhiều triển vọng. Trong đó, những trụ cột liên quan đến chuỗi cung ứng, kết cấu hạ tầng, năng lượng sạch và trung hòa carbon đều là những lĩnh vực hợp tác đáng quan tâm. Trên thực tế, hợp tác duy trì chuỗi cung ứng sản xuất đã được phía Mỹ đề cập nhiều lần trong khuôn khổ hợp tác thương mại với khu vực. Chuỗi cung ứng ổn định đã trở thành một ưu tiên của Mỹ trong bối cảnh sự gián đoạn toàn cầu của chuỗi cung ứng do đại dịch COVID-19 gây ra. Trong khi đó, các quốc gia Đông Nam Á đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thương mại toàn cầu và có khả năng trở thành nguồn cung tiềm năng. Ngoài ra, các nền kinh tế ASEAN cũng đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng năng lượng tiềm ẩn và có nhu cầu chuyển đổi sản xuất nhiệt điện than, hướng đến những nguồn năng lượng ít phát sinh các-bon như điện gió, năng lượng mặt trời, đồng thời tăng cường sử dụng khí đốt tự nhiên ngoài khơi và khí đốt tự nhiên hóa lỏng nhập khẩu. Thực tế này giúp đẩy mạnh hợp tác song phương trong tương lai vì các nước ASEAN cần sự hỗ trợ từ phía Mỹ.

Về hợp tác an ninh hàng hải

Mỹ và ASEAN cam kết đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực hàng hải thông qua các cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Cả hai bên đều đạt được tiếng nói chung trong công nhận lợi ích của việc xây dựng Biển Đông là vùng biển hòa bình, ổn định và thịnh vượng; nhấn mạnh sự cần thiết theo đuổi giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế; tầm quan trọng của việc triển khai đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); sự cần thiết duy trì và thúc đẩy môi trường thuận lợi cho việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Hợp tác song phương trong an ninh biển tập trung vào nhiều lĩnh vực như tìm kiếm và cứu nạn, an ninh biển và ngăn chặn đánh bắt cá bất hợp pháp, thông tin liên lạc trên biển, bảo vệ, phục hồi và quản lý bền vững môi trường biển. Mỹ cam kết tiếp tục hỗ trợ các nước ASEAN nâng cao năng lực thực thi luật pháp hàng hải đa phương, thúc đẩy hợp tác kỹ thuật, chia sẻ nhận thức, nâng cao năng lực, trao đổi kinh nghiệm và chia sẻ kiến thức, chuyên môn.

Hợp tác chống biến đổi khí hậu

Tổng thống Mỹ Joe Biden đã đặt vấn đề giải quyết những thách thức do biến đổi khí hậu lên hàng đầu và xem đây là một trong những ưu tiên trong hợp tác Mỹ - ASEAN. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao Mỹ tới khu vực, những thảo luận liên quan đến chống biến đổi khí hậu được đề cập thường xuyên. Đặc biệt, tại Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN vào tháng 10/2021, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã công bố khoản tài trợ trị giá 102 triệu USD để tăng cường quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN, trong đó 20,5 triệu USD được dành cho các sáng kiến Tương lai Khí hậu Mỹ - ASEAN(8). Trong Tuyên bố chung sau Hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ - ASEAN vào tháng 5/2022, hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục nhấn mạnh vào chuyển đổi năng lượng sạch, bảo tồn đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên. Các quốc gia Đông Nam Á, vốn đang phải đối mặt với những tác động nặng nề từ mực nước biển dâng cao và các hiện tượng thời tiết cực đoan, đã hoan nghênh các sáng kiến của Mỹ và dành nhiều quan tâm cho lĩnh vực hợp tác này.

Hỗ trợ khu vực phục hồi sau đại dịch COVID-19

Mỹ nhấn mạnh vào mục tiêu hỗ trợ khu vực Đông Nam Á phục hồi sau đại dịch COVID-19 thông qua những cam kết tăng cường các hệ thống và năng lực y tế của các quốc gia và khu vực; hỗ trợ tài chính cho phòng, chống, chuẩn bị sẵn sàng và ứng phó với đại dịch; tạo điều kiện tiếp cận công bằng đối với các dịch vụ y tế và thuốc điều trị an toàn, chất lượng, giá cả phù hợp; chuyển giao chuyên môn; đầu tư và tăng cường các hệ thống y tế, tăng cường, đào tạo lực lượng nhân viên y tế của khu vực.

Với mục tiêu này, thông qua Sáng kiến Tương lai Y tế Mỹ - ASEAN, Mỹ cam kết dẫn dắt cuộc chiến toàn cầu chống đại dịch COVID-19 với khoản tài trợ có thể lên tới 40 triệu USD cho những nỗ lực mới nhằm thúc đẩy nghiên cứu chung, tăng cường năng lực hệ thống y tế và phát triển nguồn vốn con người trong lĩnh vực y tế (9). Mỹ cũng đẩy mạnh chiến dịch cung cấp vaccine phòng, chống dịch bệnh COVID-19 cho Đông Nam Á. Đến cuối năm 2021, Mỹ cung cấp hơn 42 triệu liều vaccine và hỗ trợ hơn 200 triệu USD cho các nước ASEAN nhằm ứng phó với dịch bệnh COVID-19(10). Tháng 8/2021, Văn phòng Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) của khu vực Đông Nam Á được đặt tại Hà Nội - đây là một trong bốn văn phòng đại diện của CDC Mỹ trên toàn cầu.

Về các hợp tác an ninh phi truyền thống khác

Các vấn đề an ninh phi truyền thống tiếp tục là một trọng tâm trong hợp tác Mỹ - ASEAN. Bên cạnh chống biến đổi khí hậu và dịch bệnh, hợp tác an ninh phi truyền thống giữa hai bên nhấn mạnh vào tăng cường hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia trong các lĩnh vực, như mua bán trái phép chất ma túy, buôn bán người, rửa tiền, buôn lậu vũ khí, cướp biển, chống khủng bố và chủ nghĩa bạo lực cực đoan, tội phạm mạng, tội phạm kinh tế quốc tế...

Đặc biệt, tại khu vực Tiểu vùng sông Mê Công, sự hợp tác và hỗ trợ của Mỹ tiếp tục được khẳng định nhằm giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống đặt ra liên quan đến quản lý bền vững nguồn nước và tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, nông nghiệp và an ninh lương thực, an ninh năng lượng, kết n