Thứ Sáu, 3/5/2024
Vấn đề quan tâm
Thứ Ba, 27/2/2018 17:58'(GMT+7)

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Giá trị lý luận và hiện thực trong xây dựng Đảng ta

 

 
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển cô đọng của chủ nghĩa xã hội khoa học, giữ địa vị đặc biệt quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin. Sự ra đời của Tuyên ngôn đánh dấu bước ngoặt căn bản thời kỳ lịch sử phát sinh và phát triển của chủ nghĩa Mác; đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng cộng sản, có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là thế giới quan khoa học dựa trên sự kế thừa và phát triển những tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại. Tác phẩm ra đời, đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác, bao gồm ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Vì vậy, ngay từ lúc ra đời, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã là Cương lĩnh trực tiếp chỉ đạo các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân thế giới trong cuộc đấu tranh thoát khỏi ách nô lệ tư bản chủ nghĩa, tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh và tốt đẹp. Tuyên ngôn được trình bày làm 4 chương, với nội dung rất phong phú; trong đó, Chương I: Những người tư sản và những người vô sản, chương II: Những người vô sản và những người cộng sản, chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, chương IV: Thái độ của những người cộng sản với các đảng đối lập. Cuối tác phẩm là khẩu hiệu của những người cộng sản: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”.

170 năm sau khi ra đời, Tuyên ngôn vẫn luôn là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân thế giới; tiếp tục đồng hành và soi sáng con đường tiến lên của cách mạng thế giới, phù hợp quy luật của thời đại. Trong mỗi chặng đường cách mạng, mỗi thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lại càng khẳng định tính chất khoa học và cách mạng, đồng thời làm phong phú thêm những tư tưởng vượt thời đại và trường tồn của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.

1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và chính Đảng tiền phong


Nội dung cơ bản trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định: Hai nguyên lý của chủ nghĩa Mác là phương thức sản xuất và trao đổi kinh tế cùng với cơ cấu xã hội của phương thức đó quyết định sự hợp thành nền tảng của xã hội; lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp; giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, nếu đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn bộ xã hội khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp; vai trò, chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản; đập tan những hư truyền về “bóng ma cộng sản” các thế lực chính trị phản động đang loan truyền ở châu Âu khi đó,v.v.. Trong đó, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[1] chính là quan điểm nhân đạo chủ nghĩa cao cả, thấm sâu vào trong mọi quan hệ giữa người và người; là sự nhất trí hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội sẽ được xác lập một cách công bằng, văn minh trong xã hội cộng sản.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cho tới nay chính là lịch sử đấu tranh giai cấp, là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp bị áp bức bóc lột và giai cấp bóc lột và sự vận động của lịch sử xã hội hiện đại chính là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Song, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, điều đó sẽ không tự động diễn ra. Kẻ đào huyệt chôn chế độ tư bản thuộc về giai cấp vô sản - giai cấp do chính xã hội tư bản sản sinh ra: “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”[2] và “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”. Cũng theo hai ông, không một giai cấp thống trị nào lại tự nguyện rút lui khỏi vũ đài lịch sử, vì vậy, việc lật đổ giai cấp tư sản thống trị chỉ có thể thành công bởi một cuộc đấu tranh giai cấp do chính giai cấp vô sản thực hiện. Và điều kiện để bảo đảm bảo cho thắng lợi đó chính là sự lãnh đạo của một chính đảng và sự ra đời của Đảng Cộng sản là yêu cầu tất yếu để đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản”. Thực tế cũng cho thấy, những cuộc đấu tranh trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa đã tạo điều kiện cho giai cấp vô sản đoàn kết thành tổ chức và sự tổ chức ấy sẽ hình thành chính đảng. Sự tồn tại, phát triển của Đảng Cộng sản vì sứ mệnh của giai cấp vô sản; và Đảng Cộng sản chỉ kết thúc vai trò khi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đã hoàn thành.

Học thuyết về chính đảng vô sản - đội tiền phong của giai cấp vô sản, người tổ chức và lãnh đạo giai cấp vô sản được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày rõ trong Tuyên ngôn. Trong đó, hai ông cho rằng, việc thành lập một chính đảng cách mạng với tư cách này là điều kiện tiên quyết để giai cấp vô sản giành lấy chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới. Chính đảng của giai cấp vô sản này “tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”, vì “luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào” và cũng “không đặt ra những nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào vô sản theo những nguyên tắc ấy”. Đó “không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác”, mà là “bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước”, “luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên”…

Khẳng định vai trò tiên phong của chính đảng vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đồng thời chỉ rõ đường lối chiến lược, sách lược của đảng. Đó chính là mỗi chính đảng vô sản cần phải và luôn luôn phải hành động tùy theo những điều kiện lịch sử cụ thể, chứ không phải theo một khuôn mẫu cứng nhắc nào đó. Song, khi đề xuất một đường lối cụ thể để hành động, bên cạnh việc xác định sự phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước, mỗi Đảng Cộng sản đều phải tính đến những nguyên lý, nguyên tắc chiến lược, sách lược chung, nhất loạt có tính chất phổ biến, để làm cho những mục tiêu trước mắt của giai cấp vô sản nước mình phục tùng những mục đích cuối cùng của giai cấp vô sản toàn thế giới, tuân thủ sự nhất trí giữa những nhiệm vụ quốc tế và nhiệm vụ dân tộc.

Trong cuộc đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng ngũ của mình giai cấp vô sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công, nông dân. Trình bày tính tiên phong của Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp trong Tuyên ngôn, C. Mác và Ph.Ăngghen khẳng định tính tiên phong của Đảng thể hiện trong hành động thực tiễn và tiên phong về mặt lý luận. Theo đó, “về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”[3]. Như vậy, vai trò tiên phong của Đảng đảm bảo cho Đảng tập hợp được giai cấp vô sản và sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới.

Đảng Cộng sản là một bộ phận gắn liền với giai cấp và lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp, vì “họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”. Mục đích của Đảng là mục đích của giai cấp, vì Đảng là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản. Nhiệm vụ trước hết của Đảng là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền bằng bạo lực cách mạng. Tiếp đó, giai cấp vô sản sử dụng quyền lực chính trị của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Trong khi liên hợp với các đảng phái để chống lại thế lực thống trị, tiến hành sự nghiệp giải phóng, Đảng Cộng sản có sự liên minh, song luôn giữ vững nguyên tắc và lập trường của giai cấp công nhân. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết ngoài những xiềng xích trói buộc họ; và “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” chính là khẩu hiệu chiến đấu công khai “quốc tế hóa” sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.

Tiếp theo tinh thần của Tuyên ngôn, V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành yêu cầu cấp bách của các dân tộc bị áp bức. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, những người cộng sản chỉ hoàn thành vai trò người chiến sĩ tiên phong đấu tranh cho tự do “khi không một lúc nào quên vai trò đặc biệt của họ trong xã hội hiện nay, không lãng quên những nhiệm vụ đặc biệt, có tính chất lịch sử toàn thế giới của họ là giải phóng nhân loại khỏi ách đô hộ về kinh tế, đồng thời giương cao ngọn cờ của toàn dân đấu tranh cho tự do”[4]. Đồng thời, khi nghiên cứu hết sức sâu sắc các đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa; phát hiện ra quy luật phát triển không đều của hệ thống đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản có thể giành được thắng lợi ở một số nước, thậm chí có thể ở nước tập trung những mâu thuẫn, là nơi xung yếu nhất của dây chuyền đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác một cách đúng đắn và mở rộng hơn, cụ thể hơn khi kêu gọi “Vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới liên hiệp lại!”.

Trên tinh thần đó, V.I.Lênin cùng những người cộng sản Nga đã trực tiếp lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của nhân loại - kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

 2. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động


Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu bật vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của những người cộng sản và sự cần thiết phải xây dựng Đảng Cộng sản thật sự cách mạng. Trong tiến trình ấy, giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân tộc, nghĩa là phải lãnh đạo, trở thành lực lượng lãnh đạo của cả phong trào cách mạng của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Và Hồ Chí Minh, trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc đã nghiên cứu, khảo nghiệm các cuộc cách mạng ở nhiều châu lục, nhiều nước khác nhau như Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nga... và sớm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, như Người đã nói: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”[5]. Nắm vững tư tưởng về xây dựng một chính đảng vô sản kiểu mới trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng, trong nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung; và từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định rằng, “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng được trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Sau đó, bằng những nỗ lực hoạt động về lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh  đã trở về gần Tổ quốc, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam. Năm 1927, trong tác phẩm Đường Cách mệnh được xuất bản lần đầu tiên tại Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”[6] và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”[7]… Sau đó, cũng chính Người đã thấm nhuần và quán triệt sâu sắc những quan điểm về Đảng và xây dựng Đảng Cộng sản trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản để xúc tiến việc sáng lập  Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với điều kiện cụ thể của nước nhà.

Có ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá về trong nước soi đường, phong trào công nhân và phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta những năm cuối thập niên 1920 phát triển nhanh về số lượng và thay đổi nhanh cả về chất lượng. Luồng sinh khí mới của thời đại và thực tế đòi hỏi khách quan của lịch sử đã dẫn đến Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam mùa xuân năm 1930 dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; và sự ra đời của Đảng ta không chỉ chứng minh tư tưởng đúng đắn của Tuyên ngôn về Đảng Cộng sản, mà còn phù hợp với điều kiện cụ thể của một nước Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Có lý luận Mác - Lênin dẫn đường, Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã đề ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930); trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[8]; Sách lược vắn tắt của Đảng xác định: “Đảng là đội tiền phong của giai cấp, phải thu phục cho dược đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,v.v.. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp… Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp, trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”[9]… Đây chính là đường lối kết hợp nhuần nhuyễn đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc của một Đảng chân chính cách mạng - đội tiền phong của giai cấp và dân tộc; đồng thời, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin tại một nước thuộc địa -  ở đó, yêu cầu và nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải được đặt lên hàng đầu, trước hết; giải quyết đúng đắn nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải được thực hiện linh hoạt. Đây cũng chính là nguyên tắc xây dựng và hoạt động của một Đảng Cộng sản theo nguyên lý của nghĩa Mác - Lênin như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra.

15 năm sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng lãnh đạo đã thành công. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ phong kiến và thuộc địa; giành độc lập và thiết lập nhà nước cách mạng kiểu mới của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc -  kỷ nguyên độc lập dân tộc và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó, trong 30 năm tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước (1945-1975), nhờ nắm vững xu thế của lịch sử mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra; nhờ kết hợp đúng đắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta, quân đội ta đánh thắng những kẻ thù xâm lược, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; xác lập, củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, thắng lợi của hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 đến nay càng khẳng định tính đúng đắn con đường mà Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn, đó là: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đồng thời, hiện thực cách mạng Việt Nam gần 90 năm qua cũng đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Xuyên suốt và nhất quán, “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”[10]; “Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng ta đã biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta một cách sáng tạo để nêu ra đường lối, chính sách đúng đắn, bảo đảm cho cách mạng phát triển thắng lợi”[11]; “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”[12] và “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Coi trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc hoạt động của Đảng”[13]… Điều này cũng là minh chứng sinh động cho thấy, Đảng ta từ khi ra đời đến nay đã luôn thấm nhuần, vận dụng, phát triển sáng tạo những nguyên lý về Đảng và xây dựng Đảng mà C. Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; đồng thời, luôn giữ vững những nguyên tắc cơ bản của học thuyết đó trong mỗi bước ngoặt của cách mạng và thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn.

3. Tiếp tục xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu  thực tiễn


Tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo và tính tiền phong của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng, thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời  điểm, Đảng ta đã luôn khẳng định nhất quán về vị trí, vai trò và sứ mệnh của mình được C. Mác và Ph.Ăngghen khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản; được V.I.Lênin chỉ rõ: “Những đảng viên hữu danh vô thực thì cho không chúng ta cũng không cần. Đảng độc nhất nắm chính quyền trên thế giới quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào Đảng” ra khỏi hàng ngũ của mình, chứ không phải làm tăng thêm số lượng đảng viên, đó chính là đảng chúng ta, đảng của giai cấp công nhân cách mạng”[14]; và được Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong “Tư cách của Đảng chân chính cách mạng” là: “1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. 2. Cán bộ của Đảng phải biết lý luận cách mạng và lý luận cùng thực hành đi đôi với nhau... 6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng…8. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình, Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa để tiến bộ, để dạy bảo cán bộ và đảng viên... 12. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng...”[15]. Trong đó, việc tiếp tục nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của Đảng từ Trung ương đến cơ sở…, coi đó yêu cầu xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng, bảo đảm để Đảng hoàn thành sứ mệnh tiền phong và vai trò lãnh đạo của mình vẫn vẹn  nguyên giá trị. Điều đó có nghĩa là, Đảng ta luôn trung thành với lợi ích giai cấp và dân tộc; sự tồn tại và hoạt động của Đảng luôn luôn vì lợi ích giai cấp và dân tộc. Bất cứ khi nào, mọi hoạch định về chủ trương, đường lối của Đảng cũng xuất phát từ việc nắm vững quy luật khách quan; cũng đứng trên lập trường giai cấp công nhân để phản ánh đúng lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Cùng đó là, chú trọng  xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, trước hết, là cán bộ cấp chiến lược thực sự kiên định, vững vàng, tiêu biểu cho đường lối chính trị, phẩm chất trí tuệ và bản lĩnh của giai cấp công nhân. Càng nhiều khó khăn, thử thách, trọng trách của đội ngũ cán bộ, đảng viên càng nặng nề; và theo đó, yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp cao về tính tiền phong, về sự gương mẫu cả về tư tưởng, chính trị và đạo đức, lối sống, về sự nhất quán giữa lời nói và việc làm… càng lớn; càng phải được phát huy và nêu cao trong mọi lúc, mọi nơi, trong tổ chức và cả địa bàn nơi cư trú.

Đứng trước cả vận hội và thách thức của bối cảnh toàn cầu hóa, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự kỳ vọng của Tổ quốc và nhân dân; để khắc phục thực trạng: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước” và “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”[16], Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn, để ngang tầm nhiệm vụ. Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và khẳng định tính tiên phong cả về lý luận và thực tiễn, toàn Đảng toàn quân và toàn dân ta đang triển khai sâu rộng Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với Quy định về những điều đảng viên không được làm...; coi đây là giải pháp căn cơ, đột phá để Đảng khỏe mạnh, chân chính, chắc chắn. Từ đó, đưa ra khỏi Đảng những cán bộ, đảng viên không còn tiền phong, gương mẫu, không đủ tư cách, vi phạm Điều lệ và kỷ luật Đảng: quan liêu, tham nhũng, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, cơ hội, bè phái, cục bộ địa phương, cá nhân chủ nghĩa, chạy chức, chạy quyền, chạy tội, coi thường pháp luật, xa dân, không lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân..., không xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn./.

TS. Văn Thị Thanh Mai
Ths. Đinh Quang Thành


-----------
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.447.

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.605.

[3] C.Mác và PhĂngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.614- 615.

[4] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M, 1975, t.5, tr. 411-412.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3,  Hà Nội, 2011, t.4, tr.315.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3.

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.41.

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.467.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.130.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.186.

[14] V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.225.

[15]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.289.

[16] Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. 

 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất