(TG) - Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định giương cao ngọn cờ “độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, khát vọng về một đất nước Việt Nam “độc lập - tự do -
hạnh phúc”, Đảng Cộng sản Việt Nam hiệu triệu khơi dậy lòng yêu nước của
lớp lớp người Việt Nam vùng lên lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân;
chiến đấu, lao động và học tập quên mình; không quản ngại gian khổ, hy sinh,
giành thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, trong cuộc chiến đấu kiên cường bảo vệ Tổ quốc và trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Xuất phát từ điều kiện lịch
sử cụ thể và thực tiễn
phát triển của Việt Nam,
phù hợp với quy luật và xu thế
phát triển chung của nhân loại,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới mà trước hết là “đổi mới về
tư duy kinh tế”, chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường
(KTTT) định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN), đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ
động và tích cực hội nhập quốc
tế. Công cuộc đổi mới trở thành
sản phẩm sáng tạo, trí tuệ của
Đảng Cộng sản Việt Nam, của
nhân dân Việt Nam mang tầm
vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn
trên con đường xây dựng CNXH
mang bản sắc Việt Nam, của Việt
Nam và do nhân dân Việt Nam
thực hiện. Đổi mới đặt ra những
vấn đề lý luận và thực tiễn rất
mới, có những vấn đề thậm chí
trước đây chưa từng có. Đó là
sự lựa chọn mang tính lịch sử,
là một quá trình đổi mới sâu
sắc cả về phương diện tư duy,
nhận thức lý luận, cả về đường
lối lãnh đạo phát triển kinh tế -
xã hội và công tác chính trị, tư
tưởng của Đảng.
Từ một nền kinh tế khép
kín, tự cấp tự túc, bị bao vây, cô
lập, cấm vận, Việt Nam đã tiến
hành mở cửa, trở thành thành
viên của ASEAN, APEC, WTO
và nhiều tổ chức quốc tế khác,
tham gia nhiều định chế thương
mại tự do, trong đó có những
hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới, hội nhập ngày càng sâu,
rộng vào nền kinh tế toàn cầu,
đồng thời, mở rộng hội nhập
ra tất cả các lĩnh vực chính trị,
quốc phòng, an ninh và văn hóa
- xã hội,v.v.. Từ chỗ chỉ là thành
viên tham gia các định chế quốc
tế, Việt Nam đã chủ trương “chủ
động và tích cực đóng góp xây
dựng, định hình các thể chế
đa phương”, trở thành “đối tác
tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Từ chỗ phủ nhận cơ chế thị
trường (KTT) trong thời kỳ trước
Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thống nhất nhận thức
rằng, KTTT là sản phẩm của
văn minh nhân loại, muốn xây
dựng CNXH thành công không thể không phát triển KTTT định
hướng XHCN. Đây cũng chính
là mô hình kinh tế tổng quát
của Việt Nam, do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng trong
tiến trình lãnh đạo công cuộc
đổi mới. KTTT định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của KTTT;
là nền KTTT hiện đại và hội
nhập quốc tế(1). Định hướng xã
hội chủ nghĩa được thể hiện
nhất quán trên các phương
diện của nền kinh tế - xã hội.
Trong mục tiêu phát triển, đó
là: lấy con người làm trung tâm,
vì mọi người và do con người,
nhằm xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Trong phương thức phát
triển, đó là phát triển bền vững,
bao trùm và hội nhập. Gắn kết
hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa, xây
dựng con người, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường trong từng bước đi
và từng chính sách phát triển.
Trong quản lý nền kinh tế, đó
là phát huy đầy đủ vai trò chủ
thể của nhân dân trong phát
triển kinh tế - xã hội, mọi người
dân được tham gia và mọi người
dân được hưởng lợi; đảm bảo
vai trò quản lý nền kinh tế của
Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ trương phát triển kinh
tế tư nhân cũng là một quá
trình đổi mới tư duy táo bạo.
Vượt qua những tư duy cố
hữu, thậm chí có ý kiến cực
đoan muốn xóa bỏ kinh tế tư
nhân, Đảng đã xác định kinh
tế tư nhân có vị trí “quan trọng
lâu dài”, “bộ phận cấu thành
quan trọng” trong nền KTTT
định hướng XHCN. Văn kiện
Đại hội lần thứ XII của Đảng đã
khẳng định mạnh mẽ và dứt
khoát rằng, kinh tế tư nhân -
“một động lực quan trọng của
nền kinh tế”, là bước đột phá
về nhận thức so với giai đoạn
trước, khi Việt Nam chỉ coi kinh
tế tư nhân là “một trong những
động lực của nền kinh tế”.
Những thay đổi nhận thức như
vậy đã lan toả mạnh mẽ trong
đời sống xã hội, tạo ra một sức
sống mới cho nền kinh tế.
Từ một nền kinh tế nông
nghiệp, lạc hậu, quy mô nhỏ
bé, với GDP chỉ 14 tỷ USD và
GDP bình quân đầu người chỉ
khoảng 250 USD trong những
năm đầu đổi mới, Việt Nam
đã thoát ra khỏi tình trạng đói
nghèo, chuyển sang thực hiện
và đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đến năm
2018, quy mô nền kinh tế Việt
Nam đạt 245 tỷ USD, GDP bình
quân đầu người đạt 2.580 USD,
khoảng cách thu nhập giữa Việt
Nam với các nước đã được thu
hẹp đáng kể. Trong cơ cấu kinh
tế, tỷ trọng khu vực nông nghiệp
giảm xuống còn 14,8%; tỷ trọng
các khu vực công nghiệp, dịch
vụ tăng lên 85,2%. Đặc biệt, tỷ lệ
người nghèo đã giảm mạnh, từ
mức trên 60% vào những năm
đầu đổi mới xuống dưới mức
7% hiện nay. Nền kinh tế Việt
Nam được nhiều tổ chức quốc
tế đánh giá có triển vọng tốt, là
một trong những nền kinh tế
tăng trưởng nhanh nhất khu
vực và thế giới. Nếu duy trì được
đà tăng trưởng như 3 thập niên
qua thì đến năm 2045 - kỷ niệm
mốc lịch sử 100 năm Việt Nam độc lập (1945 - 2045), quy mô
GDP của Việt Nam ước sẽ đạt
khoảng 2.500 tỷ USD, còn thu
nhập bình quân đầu người đạt
khoảng 18.000 USD.
Có được những kết quả ấn
tượng trên là nhờ Đảng đã định
hướng ngày càng rõ mô hình
tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Từ chỗ tăng trưởng kinh tế theo
chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai
thác tài nguyên và lực lượng lao
động có tiền công thấp, Đảng đã
chủ trương chuyển sang thực
hiện phát triển kinh tế bao trùm
và bền vững, tiến hành cơ cấu
lại nền kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng từ chiều
rộng sang chiều sâu, hoàn thiện
mô hình tăng trưởng đồng bộ
trên cả phương diện kinh tế - kỹ
thuật, kinh tế - xã hội và kinh tế
- sinh thái, thúc đẩy phát triển
trên nền tảng đổi mới sáng tạo,
nâng cao năng suất lao động,
ứng dụng tiến bộ khoa học -
công nghệ, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát huy lợi
thế so sánh và chủ động hội
nhập quốc tế.
Càng đi sâu vào quá trình
đổi mới, đối mặt với nhiều vấn
đề khó khăn, phức tạp nảy sinh
trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, Đảng Cộng sản Việt
Nam càng ý thức được rằng, cần
phải chú trọng lãnh đạo công tác
chính trị, tư tưởng ngay trong
mỗi bước đi và trong từng chủ
trương, chính sách, nhằm tạo
ra sự thống nhất về hành động
với quyết tâm cao trong toàn hệ
thống chính trị.
Xuất phát từ yêu cầu phát
triển trong giai đoạn 2016-2020,
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của
Đảng xác định: “phát triển kinh
tế - xã hội là trung tâm, xây dựng
Đảng là then chốt”. Uy tín của
Đảng; niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, đối với sự nghiệp cách
mạng; sự bền vững, ổn định của
chế độ, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa muốn thành công đều
bắt nguồn từ kết quả của các
công tác này.
Trước hết, sự lãnh đạo của
Đảng vững vàng bằng lý luận và
trên nền tảng lý luận đúng đắn -
coi đây là linh hồn của công tác
lãnh đạo về chính trị, tư tưởng
của Đảng. Đảng đi tiên phong
trong việc thiết kế, định hướng
tầm nhìn và khát vọng phát
triển cho dân tộc. Lý luận của
Đảng có vững, quyết tâm chính
trị mới cao; việc xây dựng và ban
hành đường lối, chủ trương mới
chắc; công tác tuyên truyền, vận
động trong nhân dân mới thông;
việc bảo vệ nền tảng tư tưởng
và đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, xuyên tạc đường
lối của Đảng mới kiên định và
kiên quyết.
Đảng lãnh đạo phát triển
kinh tế - xã hội và công tác
chính trị, tư tưởng dựa vào lý
luận và bám sát thực tiễn. Trên
nguyên tắc lấy thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý, Đảng coi
trọng tổng kết thực tiễn để phát
triển lý luận, tháo gỡ những
vướng mắc trong nhận thức tư
tưởng, phát hiện ra những kinh
nghiệm hay, những mô hình
tốt, mạnh dạn, chủ động kịp
thời có chủ trương xử lý hiệu
quả những vấn đề mới nảy sinh
trong thực tiễn; giải quyết tốt,
đảm bảo hài hòa các mối quan
hệ lớn về chính trị, kinh tế, xã
hội, công nghệ, môi trường, v.v..
phản ánh quy luật đổi mới và
phát triển ở Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn, bám
sát thực tiễn sinh động luôn thay
đổi không ngừng trong bối cảnh
mới của thế giới, khu vực và đất
nước, Đảng lãnh đạo đổi mới tư
duy phát triển Việt Nam phù
hợp với xu thế phát triển KTTT,
hội nhập quốc tế, phát triển bao
trùm và bền vững,v.v..; khai thác
có hiệu quả những thành tựu
phát triển của thế giới, nhất là
thành tựu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư; tiếp thu
có chọn lọc những giá trị tiến bộ
của nhân loại về phát triển toàn
diện con người, vì con người,
lấy con người làm trung tâm,
do con người và giải phóng con
người,v.v.. phù hợp với triết lý
phát triển của dân tộc Việt Nam
và với bản chất nhân văn cao đẹp
của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, chủ trương, đường
lối lãnh đạo của Đảng thông qua
Nhà nước phải được thể chế
hóa, trước hết, phải đổi mới có
hiệu quả tổ chức bộ máy của
Đảng, Nhà nước và của cả hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả.
Đây là một trong những
điểm mới, nổi bật trong việc
tăng cường sự lãnh đạo công tác
chính trị, tư tưởng và nằm trong
số 6 nhiệm vụ trọng tâm của
Đảng Cộng sản Việt Nam được
xác định từ đầu nhiệm kỳ Đại
hội lần thứ XII. Đảng lãnh đạo
với quyết tâm cao để thực hiện
thắng lợi chủ trương đẩy mạnh
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị một cách
khoa học, tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với
tình hình mới từ Trung ương tới
địa phương, các ngành, các cấp.
Đảng Cộng sản Việt Nam chú
trọng xây dựng một tổ chức bộ
máy tinh gọn, khoa học; tăng
cường thể chế hóa việc xây dựng
và thực hiện nghiêm túc đường
lối, chủ trương, nghị quyết, nhất
là công tác kiểm tra, giám sát,
tổng kết, đánh giá dựa trên hiệu
quả công việc và sản phẩm đầu ra
có định lượng để đưa nghị quyết
của Đảng thực sự đi vào cuộc
sống. Đặc biệt, Đảng tiến hành
cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, suy thoái, tiêu cực,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
trong nội bộ, thể hiện quyết tâm
làm cho Đảng trong sạch, vững
mạnh, cho cả hệ thống chính trị
vận hành đồng bộ, có kỷ cương,
kỷ luật nghiêm minh.
Đóng vai trò hạt nhân của hệ
thống chính trị, Đảng không bao
biện, làm thay mọi việc cho Nhà
nước, mà thông qua lãnh đạo
bộ máy chính quyền nhà nước
để thể chế hóa các chủ trương,
đường lối và thực hiện sự lãnh
đạo của mình. Đảng không đứng
trên ra lệnh, không hoàn toàn
đứng bên cạnh để giám sát mà
Đảng “hóa thân” vào Nhà nước.
Đây là đặc trưng nổi bật, đảm
bảo tính đồng bộ, thống nhất,
khoa học và hiệu quả trong
phương thức lãnh đạo của Đảng
cầm quyền. Xây dựng Đảng vững
mạnh gắn liền với xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam vững mạnh
của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, theo những chuẩn
mực quản trị tốt, phục vụ phát
triển và có khả năng xử lý, ứng
phó linh hoạt với những vấn đề
mới nảy sinh trong thực tiễn.
Đồng thời, trong điều kiện Đảng
duy nhất cầm quyền thì việc
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân và
sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân trong giám sát,
phản biện xã hội là cần thiết và
hết sức quan trọng.
Thứ ba, sự lãnh đạo của Đảng
trí tuệ, tinh thông bởi đội ngũ cán
bộ, đảng viên có đức, có tài, đáp
ứng yêu cầu mới của đất nước.
Tư duy, trí tuệ và bản lĩnh
lãnh đạo của Đảng nằm trong
và thể hiện ở đội ngũ cán bộ,
đảng viên - những người gương
mẫu, đi đầu trong thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng.
Công tác tuyên truyền, giáo dục
đạo đức, tư tưởng của Đảng trong
nhân dân được thực hiện không
gì tốt bằng sự gương mẫu của
các cán bộ, đảng viên, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “một
tấm gương sống còn có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền”.(2) Do vậy, Đảng luôn chú
trọng công tác xây dựng và phát
triển cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ, tuyệt đối trung thành với lý
tưởng của Đảng - coi đây là “then
chốt” của “nhiệm vụ then chốt”.
Trong thời gian qua, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã tiến hành
đổi mới tư duy, cách làm, khắc
phục những hạn chế, yếu kém
trong từng khâu của công tác
cán bộ; lựa chọn đội ngũ cán
bộ, đảng viên hoạt động trong
các lĩnh vực kinh tế - xã hội
theo vị trí thích hợp, đúng quy
trình, quy định, đúng năng lực
sở trường. Đảng vừa bổ sung,
hoàn thiện các cơ chế đánh giá,
giám sát cán bộ, quan tâm hơn
tới chính sách đãi ngộ và tiền
lương; vừa yêu cầu phát huy vai
trò nêu gương của người cán bộ
- đảng viên và cán bộ có chức
vụ càng cao lại càng phải gương
mẫu; đồng thời, chú ý phát hiện,
tuyển chọn, bồi dưỡng cán bộ,
trọng dụng nhân tài.
Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng
luôn bền chặt, gắn bó mật thiết
với nhân dân. Tư tưởng “dân
là gốc” là truyền thống đạo lý
muôn đời của dân tộc Việt Nam
luôn được các bậc tiền nhân vận
dụng trong quá trình dựng nước
và giữ nước. Trong công việc của
Đảng, của Nhà nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nói: “Dễ trăm
lần không dân cũng chịu, khó
vạn lần dân liệu cũng xong”.(3)
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn ý
thức được rằng: phải luôn vì lợi
ích của nhân dân, dựa vào nhân
dân, phát huy vai trò làm chủ,
tinh thần trách nhiệm, sức sáng
tạo và mọi nguồn lực của nhân
dân; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Đảng lấy lợi ích của nhân
dân để định hướng mục tiêu
lãnh đạo; lấy niềm tin của nhân
dân làm chỗ dựa cho hành
động; và lấy sự hài lòng của
nhân dân làm thước đo kết quả.
Người dân ở vị trí trung tâm ở
mọi khâu của quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
mọi người dân tham gia, mọi
người dân hưởng lợi từ quá
trình phát triển, vừa là mục
tiêu, vừa là thuộc tính của nền
KTTT định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc xây dựng đoàn kết,
thống nhất trong Đảng gắn liền
với sự đồng thuận trong nhân
dân. Đảng vừa lắng nghe ý kiến,
tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, nhất là những ý kiến giám
sát, phản biện mang tính xây
dựng; vừa tuyên truyền, giải
thích cho nhân dân hiểu rõ, hiểu
đúng các chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật, đồng
thời quyết liệt đấu tranh phản
bác các luận điệu sai trái, xuyên
tạc đường lối của Đảng, xử phạt
nghiêm minh các hành vi chống
phá chế độ, vi phạm chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Vững vàng trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt
Nam đang lãnh đạo đất nước
phát triển bền vững, bao trùm và
hội nhập dựa trên đổi mới sáng
tạo; đổi mới đồng bộ, hài hòa thể
chế kinh tế với thể chế chính trị
và thể chế xã hội mà trọng tâm
là hoàn thiện thể chế KTTT định
hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế
Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và thể chế dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng
vững bằng lý luận, mạnh bằng
thể chế, trí tuệ bằng đội ngũ cán
bộ có đức, có tài và bền chặt với
nhân dân là những yêu cầu tiên
quyết, điều kiện thành công cho
sự nghiệp cách mạng Việt Nam
trong tình hình mới.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện đại hội lần thứ XII,
Văn phòng trung ương Đảng, H,
2016.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị Quốc gia, H, 2002, t.1,
tr.263.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2002, t.12,
tr. 212.
* Bài viết lược đăng từ phát biểu
đề dẫn tại Hội thảo trao đổi lý luận - thực tiễn lần thứ 4 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Cu Ba, ngày 14 và 15-11-
2018 tại Thủ đô La Habana, Cộng
hòa Cu Ba
PGS.TS. Nguyễn Xuân Thắng
Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương,
Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
__________________________________
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 2/2019