(TG)- Diễn ra từ ngày 9-16/3, Phiên họp thứ 36 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng để chuẩn bị cho Kỳ họp thứ 9,
Quốc hội khóa XIII.
Chiều 16/3, Phiên họp thứ 36 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã họp phiên bế mạc. Diễn ra từ ngày 9-16/3, Phiên họp thứ 36 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng để chuẩn bị cho Kỳ họp thứ 9,
Quốc hội khóa XIII.
Bên cạnh nội dung quan trọng là xây dựng pháp luật, tại phiên họp này,
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tiến hành chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao Trương Hòa Bình về tình hình oan sai trong hoạt động tố tụng
hình sự và bồi thường oan sai theo quy định của Luật trách nhiệm bồi
thường của nhà nước; chất vấn Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng
Seo Phử về việc thực hiện Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ
tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên
giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn, những khó khăn,
thách thức và triển vọng, kết quả đến hết năm 2015; thực trạng và giải
pháp sắp xếp bố trí dân cư vùng thường xảy ra thiên tai, vấn đề di cư tự
do, đào tạo nghề, đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số...
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đề nghị sau phiên họp này, các cơ
quan hữu quan cần tích cực hoàn thiện các văn bản và triển khai các nội
dung đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định, góp phần vào việc
chuẩn bị chu đáo, hiệu quả Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII sắp tới.
Trước đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận về dự án Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Tờ trình dự án Luật cho biết để kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ
trương của Đảng, thể chế hóa các quy định liên quan đến hoạt động giám
sát trong Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội mới được Quốc hội thông qua;
đồng thời khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động giám sát
của các cơ quan dân cử thì việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định
về giám sát trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện hành để ban hành một đạo luật
chung về hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân là thực sự
cần thiết.
Dự thảo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân được
xây dựng để quy định một cách thống nhất về hoạt động giám sát của các
cơ quan dân cử, trong đó không chỉ xác định rõ thẩm quyền, phạm vi giám
sát của từng chủ thể mà còn tăng cường sự phối hợp trong quá trình tiến
hành hoạt động giám sát nhằm nâng cao hiệu quả giám sát và tránh sự
chồng chéo, trùng lặp.
Bên cạnh việc rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định để thể chế hóa các
văn kiện của Đảng, cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp, dự thảo đã
bổ sung những nội dung được đặt ra trong thực tiễn, sửa đổi các quy
định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội hiện hành, Chương 3 của
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (năm 2003), đồ ng
thời, pháp điển hóa các quy định về hoạt động giám sát trong các nội
quy, quy chế hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân để khi Luật mới
được ban hành sẽ sớm đi vào cuộc sống mà không phải chờ sửa đổi các văn
bản khác có liên quan hoặc ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn
thi hành.
Nhiều ý kiến cho rằng dự án Luật phải t hể chế hóa chủ trương, đường lối
của Đảng về đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân;
cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp liên quan đến hoạt động giám
sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, qua đó tăng cường hiệu lực, hiệu
quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; bảo đảm sự thống
nhất, khoa học trong việc xác định đối tượng, phạm vi, hình thức, thẩm
quyền, trình tự giám sát của từng chủ thể giám sát; bảo đảm quyền, trách
nhiệm của chủ thể giám sát, của đối tượng chịu sự giám sát...
Tại Tờ trình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu rõ trên cơ sở kế thừa Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội (năm 2003), khái niệm “giám sát” được
chỉnh lý, bổ sung theo hướng giám sát trong dự thảo Luật không chỉ là
hoạt động “theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát” mà còn bao gồm cả việc “xử lý theo thẩm quyền
hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét xử lý.”
Chỉ Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao và hoạt động giám sát tối cao
phải được tiến hành tại kỳ họp Quốc hội. Nghị quyết giám sát của Quốc
hội là quyết định cao nhất. Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn đề nghị bổ sung quy định “trách nhiệm các thành viên giám sát.”
Phó Chủ tịch Quốc hội nêu thực tế có thành viên đi giám sát không đầy đủ
và cho rằng vắng phải có báo cáo, vắng dài ngày phải có người đủ thẩm
quyền thay thế. “Có thực trạng Đoàn đi giám sát không đủ thành phần, rất phản cảm, không
có uy, không đúng mục đích yêu cầu giám sát đặt ra. Đề nghị người vi
phạm phải xử lý trách nhiệm,” Phó Chủ tịch Quốc hội kiến nghị. Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, công tác giám sát giải quyết khiếu nại,
tố cáo thời gian qua được quan tâm, thực hiện đúng quy định của pháp
luật.
Hầu hết đơn thư gửi đến Đoàn đại biểu Quốc hội đều được xử lý, thường
xuyên theo dõi, đôn đốc việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền.
Một số Đoàn đại biểu Quốc hội đã tổ chức giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo các vụ phức tạp, kéo dài hay tổ chức khảo sát thực tế để thu
thập thông tin, ý kiến, kiến nghị của công dân.
Song “giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân phần lớn
mới chỉ dừng ở mức chuyển đơn và đôn đốc việc giải quyết; tỷ lệ trả lời
của các cơ quan hữu quan chưa cao, nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài chưa
được giải quyết dứt điểm,” Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá.
Dự thảo Luật đã quy định rõ hơn trình tự, thủ tục giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Trong đó, xác định rõ thẩm quyền của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố
cáo; xem xét báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao; tổ chức giám sát chuyên đề hoặc giao Hội đồng Dân
tộc, Ủy ban của Quốc hội giám sát; xem xét báo cáo, kiến nghị của cơ
quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội về việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan có thẩm quyền.
Bày tỏ sự chưa hài lòng với “thiết kế” này, Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn
Đức Hiền nhấn mạnh, cần phải phải xác định rõ thẩm quyền của các cơ
quan, chủ thể trong việc giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như
quy định rõ, khi tiến hành giám sát thì giám sát như thế nào, trách
nhiệm ra sao.
Đồng quan điểm, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu dẫn chứng sau
giám sát khiếu nại liên quan đến đất đai chúng ta đã đánh giá thực tế
toàn diện hơn. “Mong muốn của người khiếu nại, tố cáo là được giải quyết chứ không phải
chỉ để chuyển đơn. Cho nên giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo cần
quy định “sát sườn với cuộc sống,” Chủ nhiệm Nguyễn Văn Giàu cũng lưu ý,
cần quy định kế hoạch giám sát tổng thể để tránh “quá tải” cho các bộ,
ngành, địa phương.
Thảo luận về quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, một
số ý kiến cho rằng cần phân loại rõ loại thông tin bí mật nào không được
cung cấp, loại thông tin bí mật nào phải cung cấp khi có yêu cầu của
chủ thể giám sát và trách nhiệm của cơ quan, đại biểu khi được
cung cấp thông tin phải bảo đảm bí mật theo quy định của pháp
luật...
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến cụ thể về các nội dung: Giám sát
tối cao của Quốc hội và giám sát khác của Quốc hội; hậu quả pháp lý của
hoạt động giám sát; giám sát chuyên đề của Quốc hội./.
TG