Trước nhiều hạn chế còn tồn tại trong ngành công nghiệp thực phẩm (CNTP)
Việt Nam, lời khuyên của các chuyên gia Nhật Bản là phải xây dựng được
chuỗi giá trị thực phẩm, gia tăng giá trị sản phẩm qua từng khâu sản
xuất, chế biến, phân phối đến tiêu thụ.
Mới đây, tại Hà Nội, Văn phòng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật
Bản tại Hà Nội (Jetro Hà Nội) đã tổ chức “Hội nghị phát triển công
nghiệp thực phẩm Việt Nam”.
Phát triển chưa tương xứng với tiềm năng
Tại Hội nghị, ông Bùi Trường Thắng, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp (Bộ
Công Thương) cho biết, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai
đoạn 2012-2016 chỉ số sản xuất công nghiệp bình quân của ngành CNTP đạt
106,9%, chỉ số tiêu thụ bình quân của ngành đạt 109,7%.
Trong đó đáng chú ý là ngành sữa duy trì được đà tăng trưởng cao hai
con số trong hơn 1 thập kỷ qua. Giai đoạn 2011-2016, sữa tươi tăng trung
bình 16%/năm, sản lượng bia tăng trưởng trung bình 7%/năm; sản lượng
nước giải khát tăng trưởng trung bình 11%/năm.
Nhiều DN trong ngành đã đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ
tiên tiến; chủ động đầu tư, phát triển vùng nguyên liệu, từng bước đáp
ứng nhu cầu sản xuất, giảm nhập khẩu…
Vinamilk xây dựng hệ thống 10 trang trại chăn nuôi bò sữa quy mô lớn
hiện đại khắp Việt Nam với tổng đàn bò sữa lên đến 22.000 con. Tập đoàn
TH True Milk đầu tư 1,2 tỷ USD cho dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến
sữa tập trung với quy mô công nghiệp.
“Hiện nay ngành công nghiệp chế biến thực phẩm Việt Nam có nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển”, ông Thắng cho biết.
Với dân số khoảng gần 95 triệu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế
trung bình trong 10 năm đạt khoảng 6,5%/năm, Việt Nam được đánh giá là
một thị trường lớn và đầy tiềm năng đối với các loại sản phẩm, thực phẩm
chế biến.
Bên cạnh đó, sản xuất, chế biến thực phẩm hiện nay được đánh giá còn
nhiều dư địa để phát triển, đặc biệt là một số ngành như sữa, nước giải
khát, bánh kẹo, dầu ăn. Nhu cầu tiêu thụ quy ra sữa tươi được dự báo
tăng và đạt mức 27-28 lít/người/năm vào năm 2020. Mức tiêu thụ bánh kẹo
được dự báo tăng 10% trong những năm tới.
Quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế cũng mở ra
nhiều cơ hội cho sự phát triển ngành và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội phát triển, ngành chế biến thực phẩm
cũng đối mặt với những thách thức rất lớn bởi đây là ngành có tính cạnh
tranh cao và ngày càng gay gắt. Việc tham gia vào các hiệp định song
phương và đa phương với các chính sách giảm thuế nhập khẩu theo cam kết
sẽ ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh của các sản phẩm trong nước.
Nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước còn thiếu và không ổn định,
nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỉ trọng lớn. Có đến 60% nguyên liệu ngành
sữa, 70% nguyên liệu sản xuất bia, 75% nguyên liệu sản xuất dầu thực vật
phải nhập khẩu. Các DN nội không chủ động được số lượng, chất lượng,
giá nguyên vật liệu ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của DN.
Theo ông Lê An Hải, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á (Bộ Công
Thương), ngay cả thị trường nội địa, ngành công nghiệp chế biến Việt Nam
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng thể hiện rõ ở sự “xâm
chiếm” thị trường của các sản phẩm nhập khẩu từ Thái Lan, Trung Quốc.
Bên cạnh đó, sự kết nối giữa các DN trong ngành và giữa các DN nội
với các đối tác quốc tế còn rất hạn chế, phổ biến tình trạng manh mún,
nhỏ lẻ, chưa tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho sản phẩm.
Ngoài ra, đầu tư cho nghiên cứu phát triển chế biến thực phẩm tại
Việt Nam hiện nay chưa được chú trọng cả về mặt nguồn vốn và công nghệ.
“Đây là những hạn chế kéo ngành CNTP Việt Nam không thể cất cánh”, ông
Hải nhận định.
Tạo chuỗi giá trị phát triển CNTP
Ông Kitagawa Hironobu, Trưởng đại diện JETRO Hà Nội nhận định, Việt
Nam có đến hơn nửa số lao động là nông dân. Vì vậy, việc nâng cao thu
nhập của nông dân sẽ trực tiếp dẫn đến nâng cao mức sống chung của toàn
xã hội.
“Tuy nhiên, để làm được điều đó thì cần nâng cao giá trị gia tăng nhờ
công nghệ chế biến và sản xuất ra các sản phẩm có tính cạnh tranh xuất
khẩu. Ngoài ra, công nghệ chế biến sẽ góp phần giảm tỉ lệ rác thực
phẩm”, ông Kitagawa nhấn mạnh.
Còn theo ông Saka Harumi, Bộ Nông, lâm, thủy sản Nhật Bản, việc xây
dựng chuỗi giá trị thực phẩm từ khâu sản xuất, chế biến, phân phối tới
tiêu thụ trong thời gian tới là rất quan trọng đối với phát triển nông
nghiệp cũng như nâng cao chất lượng ngành CNTP Việt. Qua đó, tạo giá trị
gia tăng lớn hơn trên toàn bộ chuỗi giá trị gia tăng của thực phẩm và
mang lại lợi ích cho cả nhà sản xuất, cơ sở chế biến, nhà phân phối,
người tiêu dùng.
Ông Saka Harumi cũng cho biết, do nông nghiệp phát triển đa dạng theo
vùng miền, vì vậy cần có các biện pháp tương ứng với từng nội dung
trọng tâm mỗi vùng, không chỉ giới hạn về mặt kỹ thuật ngành nông nghiệp
mà còn cần sự hỗ trợ của toàn bộ cơ chế kinh tế-xã hội với các vấn đề
mang tính liên ngành. Đặc biệt, phải tạo được sự liên kết đầu tư của
khối tư nhân trong hợp tác phát triển kinh tế.
Cũng tại Hội nghị, ông Saka Harumi chia sẻ về hợp tác, liên kết chuỗi
giá trị nông nghiệp Việt Nam-Nhật Bản. Hiện hai nước đã tổ chức 3 lần
đối thoại kể từ năm 2014 đến nay. Các buổi đối thoại này nhằm mục đích
xây dựng chuỗi giá trị thực phẩm nông nghiệp thông qua hợp tác giữa Nhà
nước và tư nhân tại Việt Nam. Số lượng các doanh nghiệp tham gia đối
thoại ngày càng tăng lên cũng là dấu hiệu đáng mừng.
Dự định hằng năm hai nước sẽ tiếp tục tổ chức các đối thoại hợp tác
nông nghiệp và coi đó là một trong những hoạt động thực hiện tầm nhìn
trung và dài hạn trong hợp tác phát triển nông nghiệp Việt Nam-Nhật Bản./.
Thu Hương - chinhphu.vn