Thấm nhuần lời dặn của V.I.Lênin: “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”[1] và nhận thức sâu sắc rằng “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[2], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin về vận động quần chúng kiểu mới để tiến hành công tác dân vận.
GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN, “VẬN ĐỘNG TẤT CẢ LỰC LƯỢNG CỦA MỖI MỘT NGƯỜI DÂN”
Tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa những giá trị căn cốt về dân vận; trong đó, Người khẳng định bản chất của “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[3].
Thấm nhuần lời của cổ nhân “chở thuyền cũng là dân”, “lật thuyền cũng là dân”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, muốn tuyên truyền, vận động và phát huy nguồn sức mạnh nội lực của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng và cả hệ thống chính trị phải gắn bó mật thiết với nhân dân; phải tốt công tác dân vận, bởi “trong việc phá hoại chống kẻ thù đòi độc lập thì dễ dàng kéo cả toàn dân. Trong việc kiến thiết thì khó kéo hơn, vì nó đụng chạm đến quyền lợi riêng của một đôi giai từng trong nước”[4]. Hơn nữa, “chúng ta phải thật thà thừa nhận rằng kinh nghiệm chúng ta còn ít, tài năng chúng ta còn kém, mà công việc thì nhiều”, cho nên, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thường xuyên “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”[5]. Cũng theo lời Người, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước dù đúng đắn, nhưng nếu không được sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân thì rất khó đi vào hiện thực cuộc sống; nhưng muốn được nhân dân ủng hộ thì phải thực hiện tốt công tác dân vận, “phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Nghĩa là, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gần dân, hết lòng yêu dân, kính dân, hiểu dân, phải: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”[6]; cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân, vì “dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”[7].
Muốn đạt được như vậy, mọi cán bộ, đảng viên đều phải làm dân vận, đều phải biết: 1) “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”[8], để đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân. 2) Phải khắc phục kiểu suy nghĩ và làm việc từ “trên dội xuống”, chỉ thích lãnh đạo, “thích làm việc bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác”[9]; “làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”[10] - “cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên dưới cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi, đến chốn”[11]. 3) Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn, với bất cứ việc to, việc nhỏ, thì “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”[12].
Cụ thể, để dân vận đúng và hiệu quả, mỗi người khi tiến hành dân vận “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị”[13] mà phải chú trọng thực hiện sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, các đoàn thể chính trị với công tác tuyên truyền vận động quần chúng trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu, lợi ích, quyền lợi của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trên tinh thần đó, người làm dân vận phải: Một là, “tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”. Hai là, “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành”. Ba là, “trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân”. Bốn là, “khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.
CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CÙNG LÀM DÂN VẬN
Một trong những nội dung quan trọng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Dân vận không phải là việc riêng của một hai người, một hai ban, ngành, không chỉ là công tác của các đoàn thể vận động quần chúng mà phải là của cả hệ thống chính trị, là “tất cả cán bộ chính quyền. Tất cả cán bộ đoàn thể. Tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,v.v.) đều phải phụ trách dân vận”[14]. Cụ thể, theo Người, cán bộ chính quyền và các Đoàn thể địa phương là những người trước tiên phải làm/phụ trách dân vận, phải phối hợp chặt chẽ, “cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức phân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn…”[15]; “các cán bộ canh nông thì hợp tác mật thiết với cán bộ địa phương, đi sát với dân”; “hội viên các đoàn thể thì phải xung phong thi đua làm, để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm”. Bởi, cán bộ chính quyền là một thành tố hệ thống chính trị, nếu trong quá trình thực hiện chức năng quản lý kinh tế - xã hội của mình mà làm công tác dân vận không tốt, nhất là sa vào quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà cho dân, thì công tác dân vận cũng vẫn không mang lại hiệu quả thiết thực.
Để làm dân vận đúng và tốt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”[16]. Đó phải là những người luôn tự mình làm gương thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải “học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng” và “phá tan cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu, chủ quan, bàn giấy”[17],v.v.. để nhân dân noi theo, vì quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức, những người luôn lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Hơn nữa, vì “cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”, cho nên, “muốn dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi cho họ nói”, rồi “phải khéo gom góp lại, sắp đặt lại cho có ngăn nắp, thứ tự rồi cùng dân chúng ra sức thi hành”[18]... Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cán bộ, đảng viên cũng phải chú trọng thực hiện lời Người dặn và nhất thiết phải khắc phục “khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”[19].
Giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận chính là: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[20]. Điều đó có nghĩa là, dân vận tốt sẽ góp phần vào thành công của cách mạng, còn dân vận kém sẽ gây chia rẽ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm tổn hại phong trào cách mạng, đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, tấm gương làm dân vận mẫu mực của Người - của “một vị lãnh tụ thực sự liên hệ sâu sắc với quần chúng, mà nói như vậy cũng không đủ, phải nói là một vị lãnh tụ kiệt xuất đã hoà sâu trong nhân dân Việt Nam, thực sự trở thành một thể thống nhất với nhân dân Việt Nam”[21], luôn hết lòng yêu thương nhân dân, vì nhân dân phục vụ đã được Đảng ta thấm nhuần và thực hiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm bà con nông dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang. Ảnh tư liệu
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, đã có nhiều nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về tăng cường công tác dân vận được ban hành. Theo đó, cấp ủy, các cấp chính quyền, đoàn thể một mặt đã chú trọng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, làm cho quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát huy, tôn trọng; mặt khác, tăng cường công tác vận động quần chúng tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động về xây dựng đời sống văn hóa, nông thôn mới, bảo vệ an ninh Tổ quốc... góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội.
Phong trào “Dân vận khéo” và việc xây dựng mô hình “Dân vận khéo” cụ thể, thiết thực, phù hợp điều kiện thực tế ở các địa phương đã góp phần từng bước tháo gỡ, giải quyết những khó khăn, bức xúc trong nhân dân. Việc chỉ đạo đăng ký các mô hình “Dân vận khéo” gắn với đấu tranh phòng, chống lãng phí, quan liêu, tham ô, tham nhũng và thực hành tiết kiệm góp phần thiết thực vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Thông qua đó, phát huy cao độ tinh thần tự quản và ý thức cộng đồng của nhân dân trong xây dựng khu dân cư văn hóa, văn minh đô thị, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, giảm thiểu các tệ nạn xã hội, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.
TIẾP TỤC THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG “DÂN VẬN KHÉO” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Tuy nhiên, thực tế triển khai công tác dân vận cũng còn những hạn chế, cần phải khắc phục, đó là, việc thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận chưa kịp thời, nhất là cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận chưa hiệu quả. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức, chưa trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống.
Cụ thể, một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân vẫn chưa được giải quyết kịp thời; đặc biệt, quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm, tệ nạn nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân, nhất là “tham nhũng vặt” vẫn còn không ít ở địa bàn cơ sở đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong khi đó, một số cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của công tác dân vận; ở một số địa bàn cơ sở, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội giảm sút vai trò lãnh đạo, thiếu sự phối hợp trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… Thực trạng này đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương khóa XI ngày 3/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.
Thấm nhuần những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm gương mẫu mực của Người về dân vận, nhất là để “tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân… Phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[22], trong thời gian tới, các cấp ủy và cả hệ thống chính trị cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vai trò, mục đích, nội dung, phương thức tiến hành công tác dân vận trong tình hình mới. Cụ thể, gắn thực hiện công tác dân vận với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.
Thứ hai, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, đa dạng các phương pháp, hình thức dân vận phù hợp điều kiện cụ thể của địa phương, mỗi địa bàn cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đồng thời, thông qua các hình thức, biện pháp sinh động, phong phú tuyền truyền, giáo dục để nâng cao giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng, hiểu biết pháp luật cho nhân dân, để nhân dân thực hiện tốt vai trò “là chủ”, “làm chủ” của mình. Gắn thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác dân vận, để các tầng lớp nhân dân đều có thể thông qua diễn đàn Mặt trận bày tỏ chính kiến của mình. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động và kịp thời nắm bắt nhanh tình hình, tâm tư, nguyện vọng, bức xúc của người dân để tham mưu Đảng, Chính phủ điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật cũng như công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành. Thông qua đó, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho nhân dân, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nhân nguồn sức mạnh nội lực của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ở các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; trong đó, chú trọng nâng cao trình độ và tinh thần, trách nhiệm của người làm dân vận trên tinh thần “không để sót một người dân nào” và “dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Đồng thời, quan tâm tạo điều kiện về vật chất, tinh thần và cơ chế để các tổ chức và người làm công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; xây dựng phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, nâng cao trách nhiệm với dân và “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
Thứ năm, đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Duy trì, nâng cao chất lượng, hiệu quả các mô hình, điển hình đã có và tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình mới. Chú trọng xác định nội dung trọng tâm phong trào thi đua “Dân vận khéo”, mô hình “Dân vận khéo” phù hợp với điều kiện từng địa bàn cơ sở, từng đối tượng gắn với các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, trọng tâm là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước./.
Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng;
Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân;
Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
(Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”).
|
TS. Văn Thị Thanh Mai
Ban Tuyên giáo Trung ương
[1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.39, tr.251
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.511
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6. tr.232
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.19
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5. tr.326
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.65
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.10. tr.572
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6. tr.232
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5. tr.89
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5. tr.333
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5. tr.89
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5. tr.330
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6. tr.232
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6. tr.233
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6. tr.233
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6. tr.234
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5. tr.333
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5. tr.335
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6. tr.234
[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6. tr.234
[21] Phạm Văn Đồng: Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.198
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà Nội, 2016, tr.49-50