Lần đầu tiên, một hội thảo quốc tế mang tên "Diễn đàn Việt Nam" đánh giá
về những thành tựu và hạn chế sau 30 năm Đổi mới của Việt Nam được Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á-ISEAS (Singapore) tổ chức trong hai ngày (7-8/4),
với sự tham gia của đông đảo giới học giả, các nhà nghiên cứu ở khắp
nơi trên thế giới, cũng như đại diện của một số đại sứ quán và nhiều
phóng viên quốc tế.
Với 30 bài tham luận cùng với nhiều ý kiến đóng góp, Diễn đàn Việt Nam
2016 tập trung thảo luận nhiều vấn đề quan trọng và cấp thiết, mang tính
thời sự của Việt Nam, trong đó tập trung vào bốn chủ đề chính gồm: Kinh
tế, chính trị, văn hóa-xã hội và chính sách đối ngoại, nhằm đánh giá
lại những thành quả cũng như hạn chế của 30 năm Đổi mới, đồng thời nhìn
nhận chặng đường tiếp theo.
Tại diễn đàn, Giám đốc ISEAS-ông Tan Chin Tiong nhấn mạnh Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng sau 30 năm đổi mới, với tăng trưởng
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm đạt 6,8% (1990-2014) và trở thành
nước có thu nhập trung bình vào năm 2009.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh chóng, từ mức 58,1% trong năm 1993 xuống còn 11,1% trong năm 2012.
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và quốc tế, tổng
vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đạt 290,6 tỷ USD
tính đến cuối năm 2014.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 298 tỷ USD, tương đương
160% GDP. Hiện Việt Nam là một trong những nền kinh tế mở nhất trong khu
vực...
Tuy nhiên, ông Tan Chin Tiong cho rằng bên cạnh những thành tựu trên,
Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức và điều quan trọng là làm sao
duy trì được những thành quả đạt được để cải cách thành công trong chặng
đường tiếp theo.
Chia sẻ về vấn đề này, Giáo sư Adam Fforde thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế
học chiến lược Victoria, Đại học Victoria (Australia), nhận định Việt
Nam có nhiều cơ hội để duy trì những thành tựu ấn tượng đạt được.
Việt Nam có công nghệ, thể chế, người dân chăm chỉ và năng động... Điểm
mấu chốt là làm sao tạo được sự gắn kết và đồng thuận giữa chính phủ và
người dân, đảm bảo việc thực thi các chính sách có hiệu quả.
Bởi một thực tế là dù hệ thống luật pháp cũng như các chính sách của
Việt Nam ban hành tương đối đầy đủ, song vấn đề thực thi chưa thực sự
tốt.
Bên cạnh đó, những bất cập và tồn tại trong hệ thống giáo dục, y
tế...hay tình trạng tham nhũng vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Về vấn đề kinh tế, các học giả đã trao đổi nhiều lĩnh vực khác nhau,
trong đó nổi bật là sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam,
cũng như sự đổi mới của các doanh nghiệp nhà nước.
Các học giả nhất trí rằng Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy sự phát triển
của thành phần kinh tế tư nhân và cải cách thành công khu vực kinh tế
quốc doanh để làm trụ cột thúc đẩy cải cách nền kinh tế nói chung nhằm
duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Konstantin M Wacker thuộc Khoa Kinh tế thuộc
Trường Đại học Gutenberg (Đức), tiến trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước của Việt Nam khá tham vọng và chính phủ đã có nhiều nỗ lực để đưa
ra các cải cách về mặt luật pháp.
Tuy nhiên, đến nay tiến trình này vẫn chưa tạo ra sự thay đổi rõ rệt trong việc tái cơ cấu khu vực quan trọng này.
Theo chuyên gia này, thách thức lớn nhất là việc sửa đổi các quy định
trong nước để phù hợp với các cam kết quốc tế như Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) hay thực hiện đẩy đủ các yêu cầu của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Vì vậy, điều quan trọng bây giờ không phải là vội ban hành những chính
sách mới mà chính phủ cần phải nhìn lại xem đâu là những tồn tại cũng
như những gì đã làm được để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp quyết
định cổ phần hóa một doanh nghiệp hay duy trì sở hữu nhà nước và xác
định những khu vực trọng điểm để tiến hành tái cơ cấu.
Bên cạnh đó, các học giả cũng dành nhiều thời gian thảo luận về khía
cạnh chính trị và chính sách đối ngoại của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh
đến việc thực hiện các biện pháp, chính sách để duy trì được sự lãnh đạo
và chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và chính phủ trong bối cảnh ngày càng
xuất hiện nhiều những thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài...
Các chuyên gia đi sâu vào phân tích về những chính sách của Việt Nam đối
với các nước lớn như Mỹ, Ấn Độ và Trung Quốc hay quan hệ giữa Việt Nam
với các nước láng giềng như Lào, Campuchia... cũng như chính sách hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong 30 năm qua và lộ trình sắp tới.
Theo ông Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên khách mời tại Viện Nghiên cứu
Đông Nam Á (Singapore) và cũng là người tổ chức diễn đàn lần này, đây là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với Việt Nam mà còn với tình
hình quan hệ quốc tế và an ninh khu vực trong bối cảnh Việt Nam ngày
càng có vai trò quan trọng, cộng đồng quốc tế và đặc biệt là các nước
trong khu vực ngày càng quan tâm đến Việt Nam nhiều hơn./.
(TTXVN)