Hiện 98% doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp gần một nửa GDP và 41% cho ngân sách nhà nước. Chiếm tỷ lệ lớn như vậy nhưng các doanh nghiệp này vẫn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận tín dụng.
Doanh nghiệp nhỏ vẫn khát vốn
Theo các chuyên gia, dù có nhiều chính sách hỗ trợ thời gian qua nhưng
thực tế, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ vẫn chưa tiếp
cận được vốn ngân hàng.
Cụ thể, tại Thành phố Hồ Chí Minh, có nhiều chương trình kết nối ngân
hàng-doanh nghiệp; chương trình hỗ trợ ưu đãi kích cầu (Quyết định số
50/2015/QĐ-UBND ngày 30/10/2015); Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp đầu
tư phát triển sản xuất lĩnh vực công nghiệp và công nghiệp phụ trợ
(Quyết định số 15/2017/QĐ-UBND ngày 16/3/2017)nhưng hiện tại nhiều doanh
nghiệp nhỏ và vừa vẫn khá chật vật khi tiếp cận với những nguồn vốn
này.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, chủ một doanh nghiệp thủy sản tại Thành phố Hồ Chí
Minh, cho rằng lãi suất vay luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của doanh
nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa có nguồn vốn hạn hẹp.
Mặc dù đã có rất nhiều chính sách và định hướng hỗ trợ, nhưng thực tế
khi đi vay thì doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn về mặt thủ tục vay
vốn. Doanh nghiệp nào cũng muốn đổi mới sáng tạo, tiếp cận công nghệ mới
chứ không muốn “giậm chân tại chỗ,” nhưng tiếp cận vốn để đầu tư công
nghệ hiện nay quá khó khăn.
Còn với doanh nghiệp Lập Thành Đạt, một doanh nghiệp cơ khí đi lên từ mô
hình kinh doanh hộ gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh thì khó khăn lớn
nhất khi vay vốn tại ngân hàng là không có tài sản đảm bảo do công ty
mới thành lập, quy mô còn nhỏ.
Doanh nghiệp có mong muốn mở rộng sản xuất và tăng trưởng để có cơ hội
tiếp cận những đơn hàng lớn. Nhưng nguồn vốn bị hạn chế, hầu như huy
động vốn từ gia đình và các nguồn khác bên ngoài để duy trì hoạt động.
Các chính sách từ nhà nước giúp khơi thông nguồn vốn tín dụng từ ngân
hàng cũng như các quỹ đầu tư dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là
“phao cứu sinh” cho doanh nghiệp trong lúc này.
Trước khó khăn trên, các chuyên gia cho rằng, một phần do các doanh
nghiệp chưa chủ động, ngại thủ tục. Đồng thời, các ngân hàng cũng cần
hiểu rõ thực trạng hoạt động của doanh nghiệp qua hồ sơ kê khai thuế
minh bạch để có thể ra quyết định.
Theo ông Đặng Đức Huy, Giám đốc Khối ngân hàng bán lẻ, Ngân hàng Thương
mại cổ phần Sài Gòn, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn
gặp khó khăn thường thấy là không có tài sản đảm bảo; thời gian thành
lập ngắn, ngại thủ tục phức tạp và không có báo cáo tài chính đáp ứng
yêu cầu của ngân hàng.
Ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành
phố Hồ Chí Minh thừa nhận một vấn đề khác khiến các ngân hàng hiện nay
“ngại” cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn, đó là ở các doanh nghiệp
này hiện vẫn giữ hình thức hai sổ sách kế toán nhằm giảm mức thuế phải
đóng. Thực tế, việc minh bạch một sổ sách kế toán để các ngân hàng có
thể hiểu rõ thực trạng hoạt động của doanh nghiệp qua hồ sơ kê khai thuế
là rất cần thiết.
Tháo gỡ khó khăn
Theo ông Nguyễn Hoàng Minh, ba yếu tố tác động đến nguồn vốn vay của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa là tín dụng, lãi suất và tỷ giá; Trong đó, hai
cơ chế lãi suất và tỷ giá không ảnh hưởng nhiều đến tình hình cho vay
hiện tại.
Về cơ chế lãi suất, từ cuối 2016 đến nay, ngành ngân hàng thực hiện cơ
chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận. Cơ chế này đã và đang tạo điều
kiện cho doanh nghiệp cải thiện tình hình kinh doanh.
Về tỷ giá, từ cuối tháng 6/2018, thị trường ngoại hối chịu sức ép rất
lớn từ thị trường quốc tế và buộc phải nâng tỷ giá USD/VND lên. Tuy
nhiên, vẫn không ảnh hưởng đến nhu cầu ngoại tệ của người dân và doanh
nghiệp bởi Ngân hàng Nhà nước có công cụ để can thiệp.
Riêng đối với cơ chế tín dụng, ông Minh cho rằng, giai đoạn 2011-2012,
tăng trưởng tín dụng được thắt chặt với mục tiêu khoảng 8-10%. Nhưng
giai đoạn từ 2016-2018, mục tiêu tăng trưởng tín dụng được đề ra khoảng
18-20%; trong đó, năm 2018 này là 17%. Đây là mục tiêu khá cao, ngành
ngân hàng phải cố gắng nhiều mới đạt được bởi đến cuối tháng 6/2018,
tăng trưởng tín dụng của Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 7,5% với dư nợ tín
dụng khoảng 1,9 triệu tỷ đồng, chiếm 1/3 tổng dư nợ của cả nước.
Với dư địa này, ngành ngân hàng không thiếu vốn cho tất cả các doanh
nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến cuối năm. Ngoài ra, Ngân hàng
Nhà nước cũng đang tích cực xử lý nợ xấu, tạo thêm nguồn vốn hỗ trợ cho
doanh nghiệp từ nay đến cuối năm.
Theo chuyên gia tài chính Vũ Thị Mỹ Linh, Giám đốc Báo cáo Tài chính,
thuế, logistics, Ho Tram Project Company, The Grand Ho Tram Strip, để
tiếp cận được vốn ngân hàng, các doanh nghiệp nhỏ cần kiểm soát được
dòng tiền. Đó là tiêu chí để các ngân hàng tin tưởng và có các chính
sách ưu tiên vay. Do đó, bên cạnh việc phát triển doanh nghiệp, tiếp
thị, bán hàng..., vấn đề các doanh nghiệp không thể lơ là chính là quản
lý dòng tiền, xem xét kỹ vấn đề tài chính trước khi thực hiện một phương
án kinh doanh.
Về phía các ngân hàng, ông Nguyễn Hoàng Minh cho rằng cần tiếp tục nâng
cao chất lượng dịch vụ, đổi mới mô hình giao dịch, tạo điều kiện thuận
lợi, tiện ích nhất cho doanh nghiệp trong giao dịch với ngân hàng. Ngân
hàng cần tôn trọng điều kiện, nguyên tắc tín dụng. Đồng thời, đổi mới và
chuẩn hóa thủ tục vay vốn để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo bà Nguyễn Thị Vân, Giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
chi nhánh Bến Nghé, bên cạnh nguồn vốn ngân hàng, các quỹ bảo lãnh tín
dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam không thiếu, nhưng thời gian
qua hoạt động không hiệu quả. Để quỹ này phát huy tác dụng, cơ chế
chính sách phải rõ ràng, chi tiết và đảm bảo an toàn cho cả người được
bảo lãnh và người ký bảo lãnh.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp mới có ý tưởng công nghệ mới rất hay
nhưng chưa có sản phẩm thực tế nên không có tài sản đảm bảo vay vốn theo
đúng quy định được. Do đó, nhà nước cần có chính sách cụ thể về vấn đề
công nghệ mới giống như các quỹ đầu tư mạo hiểm chấp nhận rủi ro trong
lĩnh vực công nghệ mới, từ đó tạo điều kiện cho cả ngân hàng và doanh
nghiệp có điều kiện tiếp cận vốn./.
Việt Âu (TTXVN)