Đi được nửa chặng đường của 2019, báo cáo từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) đăng ký và góp vốn mua cổ phần đạt 18,47 tỷ USD, bằng 90,8% so với cùng
kỳ năm 2018. Trong đó, các dự án đầu tư trực tiếp giải ngân là 9,1 tỷ
USD và tăng gần 8% so với cùng kỳ năm ngoái.
TĂNG CƠ HỘI CHO CÁC NHÀ ĐẦU TƯ TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG
Về điều này, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chỉ
ra, sau những thành công của năm 2018, kinh tế Việt Nam quay trở lại quỹ
đạo tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng GDP trên 7%, là sự quyết tâm, nỗ
lực của cả hệ thống chính trị và sự đóng góp quan trọng của cộng đồng
doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Những con số ấn tượng được biết đến với mức kỷ lục trên 131.000 doanh
nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký 1,4 triệu tỷ đồng. Bên
cạnh đó, hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp tăng trưởng rất mạnh
trong bối cảnh dòng vốn đầu tư toàn cầu có nhiều biến động, đạt mức 36,3
tỷ USD vốn đăng ký và 19,1 tỷ USD vốn thực hiện, đây là mức cao nhất
trong 10 năm qua.
Tuy nhiên sang năm 2019, tình hình kinh tế trong và ngoài nước có
nhiều diễn biến phức tạp với những khó khăn, thách thức đan xen. Cụ thể,
kinh tế thế giới và thương mại toàn cầu bắt đầu có dấu hiệu tăng trưởng
chậm, thêm vào đó những mối xung đột thương mại giữa các nền kinh tế
lớn tiếp tục gia tăng và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, khiến thị trường tài
chính, tiền tệ quốc tế tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cộng thêm những
thách thức từ biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ngày càng khắc
nghiệt.
Bối cảnh đó đã tạo ra những yếu tố khách quan đồng thời tác động đến
dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong nửa đầu của năm.
Cụ thể về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 6 tháng, tổng
số vốn đăng ký cấp mới, tăng vốn đạt 10,35 tỷ USD và giảm 36,3% so với
cùng kỳ, song tổng vốn thực hiện 6 tháng là 9,1 tỷ USD, tăng 8,1% so với
cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, cả nước có 4.020 lượt góp vốn, mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị 8,12 tỷ USD và tăng đến
98,1% so với cùng kỳ năm 2018.
Khi đánh giá về môi trường đầu tư, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban
Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)
tin tưởng và chỉ ra những lợi thế của Việt Nam trong thu hút đầu tư FDI:
“Yếu tố chiến tranh thương mại Mỹ-Trung không phải là quan trọng nhất
trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bởi trên thế giới
đang hình thành các xu hướng "Thái Lan +1, Trung Quốc +1", có nghĩa là
nhà đầu tư nước ngoài cần mở rộng thêm một cơ sở đầu tư bên ngoài Thái
Lan, Trung Quốc nhằm đa dạng hóa thêm cơ sở đầu tư và tránh những rủi ro
về chuỗi giá trị. Và tất nhiên, chiến tranh thương mại sẽ là yếu tố để
họ đẩy nhanh hơn quá trình này. Thêm vào đó, Việt Nam tham gia vào các
hiệp định thương mại tự do thế hệ cao (như CPTPP và EVFTA) sẽ tăng cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận với các đối tác trong các hiệp định thương mại”.
Một yếu tố tích cực khác đã được ông Dương đề cập, so với các nước
trong khu vực, Việt Nam mặc dù không phải là môi trường cạnh tranh nhất
nhưng môi trường cạnh tranh đang được cải thiện nhanh nhất, do đó khi
nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam lợi thế trong tương lai sẽ gia tăng
nhanh. Về yếu tố quản lý pháp luật, Việt Nam hiện đang đứng thứ tư trong
khu vực, ngang hàng với Thái Lan và chỉ sau Singapore, Malaysia, do
Chính phủ Việt Nam có sự cam kết cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
với môi trường chính trị ổn định.
CƠ HỘI TỪ EVFTA CÓ DỄ DÀNG TRỞ THÀNH HIỆN THỰC?
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu - EVFTA được
ký kết mở ra cơ hội trong phát triển kinh tế của Việt Nam trong dài
hạn.
Theo tính toán từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hiệp định EVFTA có hiệu lực sẽ thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng
khoảng 20% vào năm 2020 và thậm chí là tăng 42,7% (năm 2025) và 44,37%
(năm 2030) đồng thời góp phần tăng GDP từ 2,18% - 3,25% ( giai đoạn 2019-2023) và tăng 7,07% - 7,72% ( giai đoạn 2029-2033).
Đồng tình với những con số trên, bà Nguyễn Thị Thu Trang,
Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam lý giải, Việt Nam có quan hệ thương mại lớn với EU nên khi EVFTA ký
kết thành công sẽ tạo điều kiện cho các ngành xuất khẩu trọng điểm của
Việt Nam (như dệt may, da giày, thủy sản) hưởng lợi lớn. Thêm vào đó,
các ngành khác trước đây vốn được bảo hộ mạnh thì nay sẽ mở cửa và tạo
sức bật mới cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vào EU.
“Đối với kinh tế Việt Nam, xuất khẩu hiện đóng góp tỷ lệ lớn vào
trong GDP, do đó khi EVFTA giúp đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đồng thời đóng góp
vào tăng GDP”, bà Nguyễn Thị Thu Trang nói.
Tuy nhiên, theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI, để hiện thực hóa những cơ hội này là không phải dễ.
Ông Vũ Tiến Lộc quan ngại, với tốc độ ký kết song phương và đa phương như
hiện nay, độ mở của nền kinh tế là rất cao trong khi năng lực hội nhập
Việt Nam còn thấp. Và dẫn chứng, chỉ số năng lực cạnh tranh do Diễn đàn
Kinh tế Thế giới xếp hạng, Việt Nam đang đứng thứ 77/ 140 nền kinh tế
thế giới, do đó nếu muốn hiện thực hóa những cơ hội từ EVFTA mang lại
cần một quá trình với nhiều nỗ lực cả từ hai phía các nhà quản lý và hệ
thống doanh nghiệp.
Xưởng hàn khung xe ôtô tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ford Việt Nam, tỉnh Hải Dương. (Ảnh: TTXVN)
THAY ĐỔI CỤC DIỆN
“Bối cảnh thương mại quốc tế liên tục thay đổi và môi trường kinh
doanh có nhiều biến động và thách thức, nhưng thách thức mang tính toàn
cầu này cũng đồng nghĩa với cơ hội”, ông Kyle F. Kelhofer, Giám đốc
Quốc gia cấp cao, Việt Nam, Lào, Campuchia - Tổ chức Tài Chính Quốc tế
(IFC) nhấn mạnh, đồng thời cho rằng: Hiệp định tự do thương mại này sẽ làm thay đổi cục diện, không chỉ
góp phần tăng tính ổn định và các lợi ích từ việc tăng trưởng thương
mại quốc tế, mà nó còn thúc đẩy những cải tổ để phát triển khu vực kinh
tế tư nhân cả trong và ngoài nước, qua đó tăng năng suất lao động giúp
Việt Nam trở thành nền kinh tế hiện đại, số hóa và có thu nhập cao.
Về vấn đề thu hút nguồn vốn FDI, theo ông Kelhofer, Việt Nam cần
chuẩn bị một lực lượng lao động trình độ cao phân bổ nguồn lực hiệu quả
trong tất cả các lĩnh vực, từ cơ sở hạ tầng đến tài chính để phục vụ nền
kinh tế số hóa và tăng hiệu quả hoạt động của các khu vực kinh tế mũi
nhọn đáp ứng vai trò thúc đẩy phát triển.
Song để làm được những điều này, môi trường kinh doanh tại các địa
phương sẽ phải tăng cường để tạo ra các cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân
trong nước có thể gia nhập các chuỗi giá trị toàn cầu với giá trị FDI
đang ngày càng tăng.
Nhìn thẳng vào vấn đề, người đứng đầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa
nhận, nền kinh tế trong nước còn gặp nhiều khó khăn, thách thức từ nội
tại và chưa thể giải quyết triệt để trong ngắn hạn, do đó chất lượng
tăng trưởng cải thiện chậm, thiếu bền vững đồng thời năng suất lao động,
năng lực cạnh tranh thấp khiến cho khu vực kinh tế trong nước chưa tham
gia sâu rộng vào mạng sản xuất toàn cầu.
“Việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp
định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP và EVFTA
là áp lực lớn đối với yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng,
hiệu quả sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam”, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói.
Để khắc phục những tồn tại này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định,
quyết tâm cải cách của Chính phủ với việc đổi mới toàn diện nền kinh tế
theo hướng nâng cao năng lực nội tại và khả năng chống chịu của nền
kinh tế, củng cố sự ổn định của kinh tế vĩ mô đồng thời đẩy mạnh ứng
dụng khoa học và tận dụng hiệu quả cách mạng công nghiệp lần thứ tư./.
Hạnh Nguyễn (Vietnam+)