Nội dung trên là nhận định của các chuyên gia kinh tế tại Hội thảo diễn biến thị
trường, giá cả Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2019, diễn ra
sáng 4/7 tại Hà Nội
GIÁ CẢ ỔN ĐỊNH
Theo nhận định của Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính),
mặt bằng giá cả thị trường nửa đầu năm 2019 biến động theo xu hướng
tăng tương đối cao trong tháng diễn ra Tết Nguyên đán, giảm nhẹ trong
tháng 3 và tăng trở lại trong hai tháng tiếp theo, sau đó giảm trở lại
vào tháng 6.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm tương đối sát với dự báo đầu năm và nằm trong kịch bản CPI tăng thấp.
Tiến sỹ Nguyễn Đức Độ, Phó Viện Kinh tế-Tài chính cho biết, ngay từ đầu năm đã đưa ra 3 kịch bản lạm phát cho cả năm.
Theo đó, trong kịch bản trung bình lạm phát năm nay sẽ ở mức 3%.
Trong kịch bản thấp lạm phát sẽ ở mức 2,5%, còn trong kịch bản cao lạm
phát sẽ vẫn thấp hơn mức 3,54% của năm 2018.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê về lạm phát 6 tháng đầu năm 2019 có thể thấy rằng, nhiều khả năng lạm phát trong năm nay sẽ theo kịch bản thấp.
Ông Nguyễn Đức Độ phân tích, lạm phát trung bình 6 tháng đầu năm 2019
mới chỉ ở mức 2,64%, thấp hơn mức 3,29% của 6 tháng đầu năm 2018, bất
chấp các đợt tăng sốc giá điện và giá xăng dầu vào tháng 3 và tháng 4.
“Thậm chí, lạm phát so với cùng kỳ năm trước của tháng 6 còn giảm xuống mức 2,16%", ông Nguyễn Đức Độ nói.
Cục Quản lý giá cho rằng, nguyên nhân chủ yếu góp phần làm CPI 6
tháng đầu năm tăng thấp so với dự báo do giá lương thực giảm do nguồn
cung trong nước dồi dào.
Nhu cầu nhập khẩu gạo trên thế giới giảm, giá thịt lợn giảm mạnh từ
tháng 3 đến tháng 5 do chịu ảnh hưởng bởi dịch tả lợn châu Phi.
Giá dịch vụ y tế giảm 0,1% so với tháng 12 năm trước do điều chỉnh
giảm giá dịch vụ khám chữa bệnh cho người không có thẻ Bảo hiểm y tế tại
một số địa phương theo Thông tư số 37/2018/TT - BYT; giá xăng dầu trong
nước giảm trở lại từ nửa cuối tháng 5.
Ngoài ra, một số nguyên nhân giảm áp lực lên mặt bằng giá như đã dự
báo trước gồm: giá dịch vụ viễn thông tiếp tục xu hướng giảm; các Bộ,
ngành phối hợp chặt chẽ trong thực hiện các chỉ đạo.
Ở chiều ngược lại, theo Cục Quản lý giá, các nguyên nhân chủ yếu làm
tăng CPI trong 6 tháng đầu năm 2019 do giá nhiên liệu, chất đốt trong
nước tăng theo giá thế giới; trong đó, giá xăng dầu trong nước tăng 4
đợt trong tháng 3, tháng 4 và tháng 5.
Cùng với đó là tác động của việc điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng
do Nhà nước quản lý như điện, sách giáo khoa; giá một số nhóm hàng tiêu
dùng (thuộc nhóm thực phẩm, dịch vụ ăn uống, đồ uống, dịch vụ giao thông
công cộng, du lịch ...) phục vụ Tết tăng theo quy luật.
Giá một số vật liệu xây dựng (sắt, thép, xi măng) và giá nhân công xây dựng tăng do nhu cầu xây dựng và chi phí đầu vào tăng.
LẠM PHÁT TRONG TẦM KIỂM SOÁT
Theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, những tháng cuối năm Việt Nam
sẽ có những thách thức như tiến độ giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp,
kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy sản có xu hướng giảm
đáng kể, ngành chăn nuôi gặp khó khăn khi đối diện với bệnh dịch tả lợn
châu Phi.
Ngoài ra, với độ mở lớn cùng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng, kinh tế Việt Nam sẽ chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi
các diễn biến kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường....
Do đó, PGS. TS. Nguyễn Bá Minh, Viện trưởng Viện Kinh tế
tài chính dự kiến 6 tháng cuối năm, giá cả những nhân tố làm tăng CPI
là giá các mặt hàng thực phẩm tiếp tục tăng.
Đặc biệt là giá thịt lợn có khả năng sẽ tăng mạnh do ảnh hưởng của
dịch tả lợn châu Phi làm cho tổng đàn nuôi của cả nước suy giảm nghiêm
trọng và các hộ chăn nuôi chưa thực hiện tái đàn ngay được.
Nhiều khả năng Nhà nước sẽ điều chỉnh tăng giá học phí, điều chỉnh
giá dịch vụ y tế.... theo lộ trình xã hội hóa giá dịch vụ y tế, giáo
dục.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Bá Minh cũng cho rằng, có một số nhân tố sẽ góp
phần kiềm chế tốc độ tăng CPI như: tình hình kinh tế-xã hội thế giới
còn nhiều bất ổn khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu có khả năng
sẽ tiếp tục giảm tốc.
Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam ra nước ngoài vẫn còn gặp
nhiều khó khăn sẽ khiến cho người nông dân khó tiêu thụ được sản phẩm do
mình làm ra; hiệu quả là giá nông sản tiếp tục giảm, sức mua của người
nông dân suy yếu.
PGS. TS. Nguyễn Bá Minh dự báo, CPI bình quân cả năm 2019 sẽ tăng ở mức từ 3-3,5% so với năm 2018.
Ông Ngô Trí Long cũng cho rằng, mục tiêu của Chính phủ kiểm soát CPI ở
mức dưới 4% là khả thi, có thể thực hiện được nhưng cũng không thể chủ
quan.
Theo ông Ngô Trí Long, để thực hiện được mục tiêu đó, Chính phủ cần
kiên trì triển khai những nhóm giải pháp lớn nhằm bảo đảm ổn định kinh
tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và tăng trưởng, tiếp tục chính sách tiền
tệ, tài khóa linh hoạt, chủ động để kiểm soát lạm phát.
Đồng thời, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, cắt giảm
thực chất các điều kiện kinh doanh; nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hóa trong nước đối với hàng nhập khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm
để hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam...
Đặc biệt, các ngành chức năng cần thúc đẩy ngay tăng trưởng tín dụng
đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, không để dồn vào những
tháng cuối năm; thực hiện lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà
nước quản lý vào thời điểm hợp lý, bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát
năm 2019...
Cục Quản lý giá cũng dự báo CPI bình quân năm 2019 sẽ ở mức khoảng từ 3,3-3,9% .
“Việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2019 cơ bản vẫn nằm
trong tầm kiểm soát của Chính phủ nếu không có các diễn biến quá bất
thường từ tình hình địa-chính trị và thị trường thế giới”, đại diện Cục
Quản lý giá cho biết.
Để đảm bảo mục tiêu kiểm soát CPI bình quân năm 2019, hỗ trợ cho tăng
trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, từ nay đến cuối năm, Bộ Tài chính sẽ
tiếp tục chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tập trung triển
khai nghiêm túc các chỉ đạo.
Theo đó, ngành chủ động theo dõi sát diễn biến cung cầu, thị trường,
giá cả để có giải pháp bình ổn thị trường phù hợp, nhất là đối với một
số mặt hàng thiết yếu hiện đang có nhiều biến động khó lường về cung cầu
và chịu tác động lớn từ giá thế giới như: thịt lợn, lương thực, xăng
dầu, LPG; mặt hàng đang có nhu cầu cao như vật liệu xây dựng.
Bên cạnh đó, điều hành giá xăng dầu trong nước phù hợp với diễn biến
giá, thế giới kết hợp với trích lập và sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu
nhằm bình ổn giá trong nước.
Ngành tài chính cũng tăng cường dự báo, tính toán tác động của việc
điều chỉnh giá các mặt hàng thiết yếu đến chỉ số giá tiêu dùng.
Việc điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý cần được thực hiện
với mức độ và thời điểm phù hợp bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát,
đồng thời hạn chế tác động chi phí đẩy đến sản xuất, tiêu dùng và đặc
biệt tránh ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống của người dân./.
Thùy Dương (TTXVN)