(TG) - Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
XII, ngày 1/11/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW
về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Trân trọng giới thiệu toàn
văn Nghị quyết:
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
Trong thời gian qua, nhiều chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế đã được các cấp, các ngành triển khai thực hiện và đạt
được kết quả bước đầu. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; tăng trưởng kinh tế
duy trì ở mức hợp lý. Mô hình tăng trưởng từng bước chuyển đổi theo
hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; năng suất lao động, năng
suất các nhân tố tổng hợp (TFP) và năng lực cạnh tranh quốc gia được cải
thiện. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Nguồn nhân
lực và khoa học-công nghệ có bước phát triển. Kết cấu hạ tầng tiếp tục
được cải thiện, quan tâm đầu tư.
Cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng
tâm là các tổ chức tín dụng đạt kết quả bước đầu, không để xảy ra tình
trạng đổ vỡ, mất an toàn hệ thống. Nợ xấu và các ngân hàng yếu kém đang
từng bước được xử lý. Quản trị doanh nghiệp nhà nước và quản lý vốn đầu
tư nhà nước tại doanh nghiệp tiếp tục được hoàn thiện. Nhiều doanh
nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá; vốn đầu tư nhà nước tiếp tục được
bảo toàn và phát triển. Hiệu quả đầu tư công từng bước được cải thiện,
bước đầu hạn chế tình trạng đầu tư dàn trải.
Khu vực nông nghiệp cơ bản phát triển ổn
định, phương thức tổ chức sản xuất từng bước được đổi mới; sản xuất
công nghiệp từng bước được phục hồi; giá trị gia tăng khu vực dịch vụ
tăng khá. Hội nhập kinh tế quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt được
nhiều kết quả tích cực; đã hoàn tất việc đàm phán, ký kết một số hiệp
định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới như Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định thương mại tự do
giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA).
Tuy nhiên, nhìn chung mô hình tăng trưởng về cơ bản vẫn theo mô hình cũ, chậm được đổi mới;
tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và số lượng lao động,
chưa dựa nhiều vào tăng năng suất lao động, ứng dụng khoa học-công nghệ,
đổi mới tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đang có xu hướng chậm lại, chất lượng
tăng trưởng thấp. Phương thức phân bổ nguồn lực xã hội chưa có sự thay
đổi rõ rệt; năng suất lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp còn
thấp. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc, bội chi ngân sách còn
lớn, nợ công tăng nhanh, nợ chính phủ đã vượt trần cho phép, áp lực trả
nợ lớn.
Việc thực hiện ba đột phá chiến lược
chưa đạt mục tiêu đề ra. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chậm được cải thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều
trở ngại. Việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ theo hướng hiện
đại còn nhiều khó khăn. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao.
Cơ cấu lại nền kinh tế triển khai
chậm, thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng;
chưa gắn kết chặt chẽ giữa tổng thể với các trọng tâm. Cơ cấu lại đầu tư
chưa gắn với cơ cấu lại tài chính ngân sách nhà nước, bảo đảm an toàn
nợ công. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý nợ xấu gặp nhiều
khó khăn; nợ xấu tiềm ẩn trong nền kinh tế còn cao, an toàn hệ thống còn
nhiều bất cập; thiếu cơ chế xử lý dứt điểm, triệt để các tổ chức tín
dụng yếu kém và nợ xấu. Ðổi mới, sắp xếp lại và cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước chưa đạt yêu cầu, tỉ lệ vốn được cổ phần hoá thấp; quản trị
doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém.
Cơ cấu lại nông nghiệp chưa thực sự gắn
với xây dựng nông thôn mới; sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu theo mô
hình kinh tế hộ nhỏ lẻ, manh mún, phân tán; liên kết giữa sản xuất, chế
biến, tiêu thụ còn nhiều bất cập; sự tham gia và đầu tư của doanh nghiệp
vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế. Cơ cấu lại các ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ chưa thực chất, hiệu quả thấp.
Cơ chế, chính sách điều phối phát triển
vùng chưa đủ mạnh. Sự phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa
các vùng còn thiếu tính liên kết, bị giới hạn bởi địa giới hành chính;
chưa phát huy được các lợi thế cạnh tranh của từng địa phương và của
toàn vùng; một số vùng kinh tế trọng điểm chưa được quan tâm đầu tư đúng
mức, chưa phát huy được vai trò đầu tàu, trở thành trung tâm kết nối
cho phát triển kinh tế vùng.
Những yếu kém, hạn chế nêu trên có
nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ
yếu. Nhận thức và tầm nhìn của các cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp và
cộng đồng về đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đầy đủ, có nơi còn bị ảnh
hưởng bởi lợi ích cục bộ và tư duy nhiệm kỳ. Việc tổ chức thực hiện chủ
trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế ở
các cấp, các ngành và địa phương còn thụ động, chậm trễ. Đột phá về thể
chế, nhất là thể chế thị trường các yếu tố sản xuất để huy động, phân
bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển còn bất cập. Đổi mới,
hoàn thiện thể chế bên trong và hội nhập với bên ngoài chưa được tiến
hành đồng bộ; hội nhập quốc tế chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu nâng
cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của tăng trưởng kinh tế.
II- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
1- Quan điểm, định hướng đổi mới
- Đổi mới mô hình tăng trưởng là để nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của
nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững toàn diện về cả kinh tế, xã
hội và môi trường. Không thúc đẩy tăng trưởng bằng mọi giá, gây tác động
xấu đến ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm quốc phòng, an ninh, tiến bộ,
công bằng xã hội, giữ gìn môi trường sinh thái.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng
chú trọng và ngày càng dựa nhiều hơn vào các nhân tố thúc đẩy tăng năng
suất lao động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là phát huy
tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, trí sáng tạo của con
người Việt Nam và thành tựu khoa học-công nghệ của nhân loại, mọi tiềm
năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước.
Tuỳ theo tình hình thực tế của từng
ngành, lĩnh vực và địa phương mà kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo
chiều rộng và chiều sâu, trong đó lấy tăng trưởng theo chiều sâu là
hướng chủ đạo. Chuyển dần từ tăng chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu
sang tăng trưởng dựa đồng thời vào cả đầu tư, xuất khẩu và thị trường
trong nước. Chuyển dần từ dựa vào gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào
của sản xuất sang dựa vào tăng năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng
khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo. Khai thác và phát huy tối đa nội
lực kết hợp với thu hút và sử dụng hiệu quả ngoại lực.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn kết
chặt chẽ với thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế với
trọng tâm ưu tiên là: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của
nền kinh tế; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi
cho khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu và triển khai ứng dụng
khoa học-công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân
tài. Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; cơ cấu lại
đầu tư công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại hệ thống các
tổ chức tín dụng; cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công; cơ cấu lại
các đơn vị sự nghiệp công.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền
kinh tế là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, có ý nghĩa quyết định đối với
việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai
đoạn hiện nay. Các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa
phương phải kiên trì, kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Toàn hệ thống chính trị và toàn dân, nhất là đội ngũ trí thức, các doanh
nhân, doanh nghiệp cần chủ động, sáng tạo, tích cực tham gia và có
nhiều đóng góp to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
2- Một số mục tiêu cụ thể
- Tiếp tục củng cố vững chắc nền tảng
kinh tế vĩ mô; kiểm soát lạm phát bình quân dưới 5%/năm; giảm dần tỉ lệ
bội chi ngân sách nhà nước, đến năm 2020 xuống dưới 4% GDP, đến năm 2030
xuống khoảng 3% GDP.
- Quy mô nợ công hằng năm giai đoạn
2016-2020 không quá 65% GDP, nợ chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước
ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Đến năm 2030, nợ công không quá
60% GDP, nợ chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia
không quá 45% GDP.
- Giai đoạn 2016-2020, hằng năm có
khoảng 30-35% doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo. Tốc độ tăng
năng suất lao động bình quân hằng năm cao hơn 5,5%; tốc độ tăng năng
suất nội ngành đóng góp hơn 60% vào tăng năng suất lao động năm 2020.
- Đến năm 2020, tỉ trọng lao động có chứng chỉ đào tạo tăng lên khoảng 25%; tỉ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 40%.
- Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
đóng góp vào tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 30-35%;
thu hẹp khoảng cách năng lực cạnh tranh quốc gia với các nước ASEAN 4.
III- MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH LỚN
1- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô
Tiếp tục ổn định và củng cố nền tảng
kinh tế vĩ mô vững chắc; kiểm soát tốt lạm phát; bảo đảm các cân đối lớn
của nền kinh tế; cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước và nợ công theo
hướng bảo đảm an toàn, bền vững; xử lý có hiệu quả nợ xấu của nền kinh
tế gắn với cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức
tín dụng yếu kém.
2- Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược
2.1- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là:
- Hoàn thiện thể chế về cổ phần hoá,
định giá doanh nghiệp nhà nước; thể chế về tài sản và quyền về tài sản
(bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ
tài sản); thể chế về thị trường các yếu tố sản xuất, bảo đảm để thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu quả nguồn
lực; thực hiện phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc thị trường vào những
ngành, lĩnh vực và vùng có hiệu quả cao, có tác động lan toả. Khắc phục
tư tưởng bao cấp, xin-cho, ỷ lại của các cấp, ngành, địa phương và trong
xã hội.
- Phát triển thị trường tài chính một
cách cân bằng hơn giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn; giữa thị
trường vốn cổ phiếu và trái phiếu; giữa trái phiếu chính phủ và trái
phiếu doanh nghiệp; giữa dịch vụ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng phi
tín dụng; quan tâm phát triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm và tín dụng
tiêu dùng.
- Hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư
công, bảo đảm hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó ưu tiên
đổi mới cách thức thẩm định, đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư theo mức
độ hiệu quả kinh tế dự tính của dự án. Có chính sách thu hút mạnh mẽ
các nguồn lực trong xã hội để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện chất lượng môi trường kinh
doanh, tạo niềm tin để doanh nghiệp, người dân, kiều bào ta ở nước ngoài
đầu tư vốn phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Khuyến khích và tạo thuận lợi, hỗ trợ
khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo, phát triển doanh nghiệp. Thu hút có chọn
lọc các dự án đầu tư nước ngoài, tăng cường kết nối và phát huy tác
động lan toả với các khu vực kinh tế trong nước.
- Hoàn thiện luật pháp liên quan về đất
đai để khuyến khích và tạo điều kiện tích tụ đất nông nghiệp; phát triển
mạnh thị trường quyền sử dụng đất, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp, nhất là đối với đất nông nghiệp.
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp về lao động và thị trường lao động; tạo thuận lợi cho việc dịch chuyển lao động ở trong nước.
- Hoàn thiện chính sách, luật pháp, nâng
cao năng lực thực thi pháp luật về môi trường; khắc phục cơ bản tình
trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt quan tâm các khu vực trọng điểm; giám
sát các vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới; ứng phó hiệu quả với biến đổi
khí hậu.
- Nghiên cứu, xây dựng thể chế vượt trội
cho những địa phương, vùng kinh tế động lực, khu hành chính-kinh tế đặc
biệt để thực hiện tốt vai trò đầu tàu, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội.
2.2- Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ, hiện đại.
Đẩy mạnh thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công-tư, bảo
đảm tính công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, quản lý và sử dụng
hiệu quả vốn đầu tư đối với từng dự án. Tập trung vốn đầu tư công và các
nguồn vốn đầu tư khác để thực hiện một số dự án đầu tư hạ tầng trọng
điểm và tại các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Sớm triển khai xây
dựng một số khu hành chính-kinh tế đặc biệt; ưu tiên phát triển một số
đô thị thông minh.
2.3- Chú trọng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo đúng tinh thần của
Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng. Thực hiện tốt cơ chế, chính
sách, pháp luật về phát triển giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ; coi
trọng đào tạo đại học và trên đại học, cao đẳng và dạy nghề theo chuẩn
khu vực và quốc tế. Tạo chuyển biến nhanh và rõ nét trong phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành,
lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế; nâng cao năng lực, trình độ quản lý nhà
nước và quản trị doanh nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hoá, giao quyền tự chủ
cho các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề công lập; khuyến khích các
doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề.
3- Ưu tiên phát triển và chuyển
giao khoa học-công nghệ, nhất là khoa học-công nghệ hiện đại, coi đây là
yếu tố trọng yếu nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của
nền kinh tế
- Nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ và
đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp; khuyến khích, tạo điều kiện để doanh
nghiệp tham gia nghiên cứu, phát triển và chuyển giao khoa học-công
nghệ. Thực hiện cơ chế đối ứng hợp tác công-tư để doanh nghiệp khai thác
có hiệu quả các dự án đổi mới công nghệ, sáng tạo, nghiên cứu và phát
triển.
- Tiếp tục phát triển mạnh các khu công
nghiệp, khu công nghệ cao; thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo. Xây
dựng và thực hiện chính sách nhập khẩu công nghệ.
- Xây dựng, vận hành có hiệu quả hệ
thống cơ sở dữ liệu và thực hành tốt nhất về năng suất lao động để theo
dõi tình hình thực hiện và phân tích, đánh giá, dự báo.
4- Đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể
các ngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi cả nước và từng địa phương,
doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ
giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực
trọng tâm
4.1- Về cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước
- Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Xác định
cụ thể phạm vi, ngành nghề đầu tư, sản xuất, kinh doanh; đẩy nhanh tiến
độ sắp xếp, cơ cấu lại danh mục vốn đầu tư nhà nước trong các ngành,
nghề theo quy định.
- Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá, thoái
vốn đầu tư của Nhà nước một cách công khai, minh bạch theo cơ chế thị
trường; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán, không để
xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước; có cơ chế kiểm soát phù hợp
nguồn vốn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp; các doanh nghiệp cổ phần hoá
phải niêm yết trong thời hạn một năm kể từ ngày phát hành cổ phiếu lần
đầu; thu hút nhà đầu tư chiến lược có năng lực, giảm tỉ lệ sở hữu nhà
nước xuống mức đủ để thay đổi quản trị doanh nghiệp một cách thực chất.
- Xây dựng Đề án thành lập cơ quan
chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước trình
Bộ Chính trị xem xét, quyết định; sớm xoá bỏ chức năng đại diện sở hữu
của các bộ, ủy ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh
nghiệp; đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị
trường và phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm tra,
giám sát chặt chẽ; kiên quyết xử lý các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ,
các dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả hoặc hiệu quả
thấp theo nguyên tắc và cơ chế thị trường; xem xét, thực hiện biện pháp
phá sản doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ
việc vay nợ và sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công
ty nhà nước, nhất là vay nợ nước ngoài; hạn chế tối đa cấp bảo lãnh
Chính phủ cho các khoản vay mới.
4.2- Về cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng
- Tiếp tục lành mạnh hoá tình hình tài
chính, nâng cao năng lực quản trị của các tổ chức tín dụng theo quy định
của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế. Từng bước xử lý và xoá
bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng có
liên quan; đẩy mạnh thoái vốn ngoài ngành của các ngân hàng thương mại.
- Ban hành các quy định hỗ trợ xử lý nợ
xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; giao thẩm quyền và nâng cao năng
lực của Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) trong mua
bán nợ theo giá thị trường gắn với xử lý tài sản thế chấp, bảo vệ lợi
ích hợp pháp, chính đáng của chủ nợ; đồng thời, bố trí nguồn lực phù hợp
để xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu trong nền kinh tế.
- Tăng cường công tác thanh tra, giám
sát, quản trị rủi ro các tổ chức tín dụng. Tiếp tục cơ cấu lại các tổ
chức tín dụng; xử lý căn bản và triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng
yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc
thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn
định, an toàn hệ thống.
4.3- Tiếp tục cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công
- Rà soát, hoàn thiện hệ thống quy
chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế-kỹ thuật, đơn giá xây dựng, suất đầu
tư của các ngành kinh tế. Thực hiện cơ cấu lại đầu tư công gắn với cơ
cấu lại tài chính, ngân sách nhà nước và nợ công; thực hiện tốt kế hoạch
đầu tư công trung hạn gắn với kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch
vay, trả nợ công.
- Công khai, minh bạch thông tin và tăng
cường giám sát đối với đầu tư công. Triển khai quyết liệt các biện pháp
phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí vốn, tài
sản nhà nước. Tập trung tháo gỡ vấn đề chi ngân sách, nợ công, nợ chính
phủ, nợ nước ngoài. Xác định rõ trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức đối với hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư.
4.4- Đổi mới, cơ cấu lại khu vực sự nghiệp công lập
- Tiếp tục thực hiện giao quyền tự chủ
đầy đủ về tài chính, tổ chức, biên chế và hoạt động cho các đơn vị sự
nghiệp công lập; tính đúng, tính đủ chi phí hợp lý, điều chỉnh giá các
loại dịch vụ công theo cơ chế thị trường; chuyển từ cơ chế cấp phát sang
đặt hàng, từ hỗ trợ cho các đơn vị cung cấp sang hỗ trợ trực tiếp cho
các đối tượng thụ hưởng, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các đơn vị sự
nghiệp công lập. Khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
tham gia phát triển, cung cấp dịch vụ công; phát triển thị trường dịch
vụ công có sự quản lý, điều tiết phù hợp của Nhà nước.
- Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự
nghiệp công lập, thực hiện hạch toán như doanh nghiệp đối với các đơn vị
sự nghiệp công lập có đủ điều kiện, cổ phần hoá các đơn vị sự nghiệp
công lập có đủ điều kiện, trừ các bệnh viện, trường học; giải thể các
đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động kém hiệu quả; không để cổ phần hoá
thành tư nhân hoá và xã hội hoá thành thương mại hoá dịch vụ công.
4.5- Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới
- Nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa
học-công nghệ và các quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất, hướng
tới nền nông nghiệp sạch, công nghệ cao, thân thiện với môi trường;
chuyển mạnh từ sản xuất lấy số lượng làm mục tiêu sang sản xuất nâng cao
chất lượng, hiệu quả, có giá trị gia tăng cao, phù hợp với điều kiện
biến đổi khí hậu, nước biển dâng để lựa chọn phát triển các sản phẩm
phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương, từng vùng và cả nước.
- Tiếp tục đổi mới và phát triển các
hình thức tổ chức sản xuất phù hợp; nhân rộng các mô hình tổ chức sản
xuất mới, hiệu quả đã được kiểm chứng; phát triển các hình thức hợp tác,
liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết
nối với hệ thống tiêu thụ ở cả trong nước và ngoài nước; chuyển mạnh từ
sản xuất theo hộ gia đình riêng lẻ sang mô hình sản xuất hợp tác, liên
kết, tập trung, quy mô lớn; có cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút
mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
- Phát triển mạnh công nghiệp chế biến
sâu, chế biến tinh nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp và dịch
vụ ở nông thôn, góp phần tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu lao động nông
nghiệp, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
- Đẩy mạnh thực hiện chương trình xây
dựng thương hiệu nông sản Việt Nam; có chính sách phù hợp để phát triển
và tiêu thụ đối với các nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, có lợi thế quốc
gia, lợi thế địa phương và các đặc sản vùng, miền.
- Tiếp tục đầu tư phát triển, hiện đại
hoá kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; tăng cường năng lực phòng,
chống, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, hợp tác sử dụng
có hiệu quả, bền vững nguồn nước xuyên quốc gia; bảo vệ môi trường sinh
thái.
4.6- Cơ cấu lại một cách thực chất các ngành công nghiệp
- Xây dựng và thực hiện chính sách công
nghiệp quốc gia, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ, trọng tâm, đột phá
hướng vào tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
- Tập trung vào những ngành công nghiệp
nền tảng, có lợi thế cạnh tranh và có ý nghĩa chiến lược đối với tăng
trưởng nhanh, bền vững; lựa chọn sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
chủ lực để ưu tiên phát triển, cơ cấu lại; phát triển công nghiệp chế
biến, chế tạo, tăng mạnh năng suất nội bộ ngành, tăng hàm lượng công
nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm.
- Chú trọng phát triển công nghiệp sản
xuất linh kiện, cụm linh kiện, thúc đẩy một số mặt hàng tham gia sâu, có
hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị, phân phối toàn cầu.
4.7- Thực hiện cơ cấu lại và phát
triển nhanh các ngành dịch vụ, duy trì tốc độ tăng trưởng các ngành dịch
vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP
- Tập trung phát triển một số ngành dịch
vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như tài chính,
ngân hàng, hàng hải, logistics, dịch vụ kỹ thuật dầu khí, hàng không,
dịch vụ thương mại; dịch vụ giáo dục, đào tạo; dịch vụ y tế, chăm sóc
sức khoẻ; các loại dịch vụ kiểm toán, tư vấn, pháp lý…
- Thực hiện có hiệu quả chương trình
phát triển du lịch quốc gia, tạo chuyển biến mạnh để đến năm 2020 du
lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
5- Phát triển mạnh khu vực kinh
tế tư nhân Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, thực sự là một động lực
quan trọng trong phát triển kinh tế
- Thúc đẩy hình thành và phát triển các
tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại để làm nòng cốt,
mũi nhọn phát triển kinh tế, cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong nước, nâng cao sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước
ngoài.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát
triển mạnh khu vực doanh nghiệp chính thức có đăng ký, giảm dần và thu
hẹp quy mô kinh doanh phi chính thức.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
giảm cơ bản gánh nặng chi phí đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
nhỏ và vừa; đổi mới cách thức quản lý và thái độ làm việc của cán bộ,
công chức theo hướng hỗ trợ và phục vụ doanh nghiệp; công khai, minh
bạch, tăng cường kỷ luật, kỷ cương đối với cán bộ, công chức, cơ quan
nhà nước, xử lý nghiêm các tiêu cực, nhũng nhiễu.
6- Đổi mới cách thức thực hiện
liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong phát triển kinh tế vùng;
thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hoá
- Hoàn thiện và nâng cao chất lượng,
hiệu lực thực thi các quy hoạch phát triển kinh tế vùng; nâng cao năng
lực các Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ trong chỉ đạo tổ
chức thực hiện các quy hoạch phát triển vùng và chỉ đạo, giám sát liên
kết, phối hợp phát triển kinh tế giữa các địa phương trong vùng.
- Nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương và hình thành thể chế điều
phối phát triển kinh tế theo vùng. Các địa phương trong vùng phối hợp
xây dựng các đề án, thoả thuận phối hợp, liên kết phát triển kinh tế-xã
hội; phối hợp ban hành và thực hiện chính sách thu hút đầu tư, xúc tiến
đầu tư, ưu tiên các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế cạnh tranh.
- Thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị
hoá trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; kiểm soát chặt chẽ
quá trình phát triển đô thị, hoàn thiện mô hình phát triển kinh tế đô
thị, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và phương thức quản lý của
chính quyền đô thị. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch tổng thể đô thị quốc
gia với tầm nhìn đến năm 2050.
7- Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh
- Chính sách quốc phòng, an ninh phải
tạo thuận lợi và hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời, phát triển
kinh tế phải góp phần gia tăng tiềm lực quốc phòng, an ninh. Xây dựng
và thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh tiên
tiến, hiện đại. Các dự án phát triển kinh tế, xã hội trong các khu vực
phòng thủ, tuyến biên giới và vị trí chiến lược phải bảo đảm yêu cầu về
quốc phòng, an ninh. Hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù đối với doanh
nghiệp quốc phòng, an ninh.
- Ưu tiên phát triển mạnh các ngành kinh
tế biển, gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời
sống nhân dân vùng biển, đảo. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư
phát triển các ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng biển, đóng và
sửa chữa tàu biển, vận tải biển; khai thác và chế biến hải sản, các dịch
vụ hậu cần nghề cá; du lịch biển, đảo. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế-xã hội phục vụ sản xuất và đời sống vùng biển, đảo. Khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi để người dân định cư lâu dài trên các đảo.
8- Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước
- Đổi mới phương thức quản lý nhà nước
về kinh tế theo hướng xây dựng nhà nước quản lý và phục vụ; đồng thời,
tăng cường khả năng điều tiết, giám sát, kiểm tra và thanh tra theo mức
độ rủi ro và tuân thủ pháp luật của đối tượng quản lý; xử lý nghiêm
những hành vi vi phạm pháp luật.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin, thực hiện điện tử hoá nghiệp vụ quản lý nhà nước và xã hội hoá việc
xây dựng các dữ liệu thông tin quản lý nhà nước.
- Tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế
gắn với cải cách tiền lương; đổi mới mạnh mẽ quy trình, phương thức tổ
chức tuyển dụng, sử dụng, trả lương, đánh giá, đề bạt cán bộ; thực hiện
bổ nhiệm, đề bạt cán bộ chủ yếu dựa trên thành tích, kết quả công việc;
tăng cường trách nhiệm giải trình của người đứng đầu đối với cán bộ,
công chức thuộc quyền quản lý và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao
của đơn vị.
- Tăng cường năng lực các cơ quan chức
năng quản lý và giám sát thị trường. Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn,
liêm chính, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương
của các cơ quan nhà nước và người đứng đầu.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Các ban đảng Trung ương, các ban cán
sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương
tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết; xác định nhiệm vụ, chủ trương,
các giải pháp phù hợp, cụ thể thực hiện ngay trong phạm vi tổ chức, cơ
quan, đơn vị, ngành và địa phương.
2- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo bổ sung
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật trực tiếp
hỗ trợ đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; tăng cường
giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế.
3- Ban cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự
đảng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, các tỉnh
ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương:
- Xây dựng kế hoạch hành động với lộ
trình và phân công cụ thể trách nhiệm cho các tổ chức, đơn vị thực hiện
phù hợp với mục tiêu, yêu cầu và điều kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh
vực, địa phương và đơn vị.
- Tập trung chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách và trọng tâm sau:
+ Đẩy mạnh cơ cấu lại đầu tư công; khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tham nhũng, lãng phí, nợ đọng xây dựng cơ bản.
+ Cơ cấu lại ngân sách nhà nước và quản
lý nợ công theo hướng bảo đảm an toàn, bền vững; thực hành triệt để tiết
kiệm chi tiêu trong khả năng của nền kinh tế, chỉ vay trong khả năng
trả nợ; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước.
+ Xử lý có hiệu quả các tổ chức tín dụng
yếu kém, tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu
của nền kinh tế một cách căn bản và triệt để; từng bước xử lý và xoá bỏ
tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo; đẩy mạnh thoái vốn ngoài ngành của
các ngân hàng thương mại.
+ Đẩy mạnh cổ phần hoá, thoái vốn đầu tư
nhà nước một cách minh bạch, thực chất, thận trọng theo cơ chế thị
trường; kiên quyết xử lý các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ không thể
phục hồi.
+ Đẩy mạnh sắp xếp, cơ cấu lại và giao quyền tự chủ đầy đủ cho các tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập.
+ Phát huy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; hỗ trợ và phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp cả về số lượng và chất lượng.
+ Tập trung, tích tụ ruộng đất, cơ cấu
lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới có hiệu quả, phù hợp với
thực tế biến đổi khí hậu.
4- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể
các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch tham gia và giám sát kết quả
thực hiện Nghị quyết.
5- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì,
phối hợp với Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền
hình Việt Nam, các cơ quan thông tin, báo chí tổ chức tuyên truyền sâu,
rộng và liên tục về Nghị quyết, kết quả thực hiện, những cách làm sáng
tạo, điển hình tốt; phê bình những cá nhân, tổ chức chần chừ, thiếu tích
cực, thụ động hoặc thực hiện không đạt kết quả như yêu cầu, nhiệm vụ đề
ra.
6- Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối
hợp với Văn phòng Trung ương Đảng, các ban cán sự đảng, đảng ủy trực
thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc triển khai
thực hiện Nghị quyết; định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư./.