Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2018.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội năm 2018 theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đề ra phương châm
hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả” và xác
định trọng tâm chỉ đạo điều hành là:
Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tạo chuyển biến rõ nét, thực chất
trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh; khuyến khích đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phát triển
doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực hiện quyết liệt cải
cách hành chính; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả thực thi pháp luật và sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở tất cả các
ngành, các cấp. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Chú trọng các
nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội; thực hành dân chủ và công bằng xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ môi trường, phòng chống thiên
tai, ứng phó biến đổi khí hậu; bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia;
nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
Căn cứ mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội theo Nghị
quyết của Quốc hội, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương xây dựng
hệ thống chỉ tiêu cụ thể phục vụ cho công tác chỉ đạo điều hành theo
chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, lĩnh vực công tác được giao; tập trung
thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, trong
đó, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các
cân đối lớn của nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Cụ thể, điều hành đồng bộ các chính sách vĩ mô, kết hợp hài hòa giữa
chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng với chính sách tài
khóa chặt chẽ, kỷ luật, kỷ cương và các chính sách khác; phấn đấu tăng
trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 6,7%, kiểm soát tốc độ tăng
giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%.
Tiếp tục điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với cân đối vĩ mô, diễn biến
lạm phát và thị trường tiền tệ; phấn đấu giảm lãi suất cho vay phù hợp
với điều kiện kinh tế vĩ mô; ổn định và phát triển thị trường ngoại tệ,
tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Mở rộng tín dụng đi đôi với
nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung tín dụng cho các lĩnh vực ưu
tiên, khu vực sản xuất, kinh doanh; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với
lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Tăng cường kỷ luật tài chính, điều hành ngân sách chặt chẽ, tiết kiệm,
trong phạm vi dự toán được giao. Mở rộng cơ sở thuế, tạo chuyển biến rõ
nét trong việc quản lý thu, nhất là khu vực kinh tế phi chính thức; tăng
cường thanh tra, kiểm tra, chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương
mại, quản lý chặt chẽ giá tính thuế, chống chuyển giá, trốn lậu thuế;
tăng cường thanh tra, kiểm tra, tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền
phương án xử lý nợ đọng thuế không có khả năng thu hồi, giảm tỷ lệ
nợ đọng thuế xuống dưới 5% tổng thu ngân sách nhà nước; phấn đấu
tăng thu ngân sách 3% so với dự toán Quốc hội giao.
Triệt để tiết kiệm các khoản chi ngân sách, rà soát, sắp xếp các
nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp thiết; hạn chế mua sắm xe ôtô công
và trang thiết bị đắt tiền; hạn chế tối đa tổ chức hội nghị, lễ
hội, hội thảo, khánh tiết, công tác nước ngoài...; chỉ ban hành mới cơ
chế, chính sách chi ngân sách nhà nước khi có nguồn tài chính đảm bảo.
Kiên quyết cắt giảm những khoản chi thường xuyên ngân sách trung ương đã
được giao trong dự toán đầu năm, nhưng đến ngày 30/6/2018 chưa phân bổ,
trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Kiểm soát
bội chi ngân sách nhà nước ở mức 3,7% GDP.
Quản lý chặt chẽ và sử dụng hiệu quả tài sản công, nợ công, tăng cường
quản lý các quỹ ngoài ngân sách, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc vay,
sử dụng vốn vay, trả nợ. Phấn đấu đến cuối năm 2018, dư nợ công khoảng
63,9% GDP, nợ Chính phủ khoảng 52,5% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia
khoảng 47,6% GDP. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý triển khai Luật Quản lý
nợ công, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp cơ cấu lại ngân sách
nhà nước và quản lý nợ công theo hướng an toàn, bền vững theo tinh thần
Nghị quyết của Bộ Chính trị.
Tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực ngân sách
nhà nước gắn với huy động tối đa các nguồn lực ngoài nhà nước để thúc
đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện thể chế,
pháp luật theo hướng bảo đảm nguyên tắc ngân sách trung ương đóng vai
trò chủ đạo, trong đó có cơ chế phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi phù
hợp, khắc phục hiệu quả tình trạng tỷ trọng nguồn thu ngân sách trung
ương giảm và cân đối ngân sách trung ương khó khăn như hiện nay.
Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ đầu tư công, kiên quyết phòng,
chống lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các vi phạm trong
hoạt động đầu tư công; chấn chỉnh những bất cập trong các dự án đối tác
công tư, nhất là các dự án BOT. Triển khai nhanh, quyết liệt công tác
phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư công; đẩy nhanh tốc độ thực hiện và
giải ngân ngay từ những tháng đầu năm, nhất là các công trình hạ tầng bị
thiệt hại do thiên tai, dự án hạ tầng quan trọng. Phấn đấu giải ngân
100% dự toán chi đầu tư phát triển được Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ
giao. Tăng cường các biện pháp để không phát sinh nợ đọng xây dựng cơ
bản.
Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)
Thúc đẩy xuất khẩu, đẩy mạnh mở rộng thị trường gắn với đơn giản hóa thủ
tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là thủ tục kiểm tra
chuyên ngành. Bảo đảm cân đối xuất nhập khẩu, phấn đấu đạt tốc độ tăng
tổng kim ngạch xuất khẩu từ 8% đến 10% so với năm 2017, kiểm soát nhập
siêu dưới 3% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Triển khai các biện pháp phòng vệ thương mại, các hàng rào kỹ thuật phù
hợp với các cam kết quốc tế; tăng cường quản lý, kiểm soát nhập khẩu;
cải thiện tình trạng thâm hụt thương mại với các thị trường nhập siêu
cao. Phát triển mạnh thị trường trong nước; xây dựng hệ thống phân phối
đồng bộ và hiệu quả. Tăng cường quản lý doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực phân phối bán lẻ phù hợp với cam kết mở cửa thị trường,
đẩy mạnh kết nối giữa nhà phân phối và nông dân tại các vùng sản xuất
nông sản. Phấn đấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng tăng khoảng 10%.
Triển khai hiệu quả các biện pháp bình ổn giá cả, thị trường; tiếp tục
điều chỉnh theo lộ trình giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quản lý. Tạo
thuận lợi thương mại kết hợp với tăng cường công tác quản lý, kiểm tra
thị trường, các biện pháp phòng chống và xử lý nghiêm, kịp thời
các hành vi gian lận thương mại, buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất
lượng.
Theo dõi sát diễn biến, thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình thị
trường bất động sản. Nghiên cứu và thực hiện có hiệu quả các công cụ,
giải pháp để thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển ổn định, bền
vững, không để xảy ra tình trạng đầu cơ, tăng giá bất hợp lý, bảo đảm
tính công khai minh bạch của thị trường; nâng cao chất lượng công tác
thống kê và phân tích, dự báo về tình hình kinh tế vĩ mô; chủ động
phương án, giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả đối với diễn biến tình
hình trong nước, quốc tế.
Tập trung cải cách thủ tục hành chính liên quan đến đất đai, thuế, hải
quan, nông nghiệp, nông thôn, ứng dụng công nghệ thông tin, khởi nghiệp,
phát triển du lịch, tiếp cận tín dụng, bảo hiểm xã hội, chính sách đối
với người có công, lý lịch tư pháp, hộ tịch..., giảm thời gian thực hiện
thủ tục và chi phí hoạt động của người dân, doanh nghiệp.
Cải thiện căn bản, tạo chuyển biến mạnh mẽ các chỉ tiêu về môi trường
kinh doanh, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; sửa đổi, bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh, trong đó tập
trung cải cách toàn diện hoạt động kiểm tra chuyên ngành, bảo đảm cắt
giảm, đơn giản hóa 50% danh mục hàng hóa, sản phẩm và thủ tục kiểm tra
chuyên ngành; cắt giảm, đơn giản hóa 50% điều kiện đầu tư kinh doanh.
Thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại với doanh nghiệp, kịp thời xử lý
những phản ánh và kiến nghị của doanh nghiệp. Phấn đấu năm 2018 cải
thiện đáng kể về thứ hạng của Việt Nam trong bảng xếp hạng của thế giới,
đưa Việt Nam vào nhóm ASEAN-4 về năng lực cạnh tranh và môi trường kinh
doanh.
Triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp phát triển mạnh doanh
nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp; chú trọng thu hút đầu tư
nước ngoài sử dụng công nghệ cao và các tập đoàn đa quốc gia gắn với
phát triển doanh nghiệp trong nước và công nghiệp hỗ trợ. Tiếp tục hoàn
thiện các cơ chế, chính sách về đầu tư kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng theo cơ chế thị trường.
Thực hiện quyết liệt và đồng bộ 3 đột phá chiến lược
Tập trung thực hiện quyết liệt và đồng bộ 3 đột phá chiến lược. Cụ thể,
đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật theo
tinh thần thượng tôn pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện, ban hành
kịp thời các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật,
pháp lệnh, nghị quyết đã có hiệu lực, khắc phục tình trạng nợ đọng văn
bản quy phạm pháp luật. Chuẩn bị tốt các dự án Luật trình Quốc hội cho ý
kiến và thông qua tại các kỳ họp năm 2018, trọng tâm là Luật Đơn vị
hành chính-kinh tế đặc biệt; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đầu tư công; sửa đổi các luật liên quan đến đất đai, xây dựng, nhà ở,
đầu tư, kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành... Tiếp tục sửa đổi, bổ sung
nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư, nhất là đầu tư công, đầu tư theo
hình thức đối tác công tư (PPP). Có cơ chế, chính sách huy động và sử
dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển và đầu tư kinh doanh.
Hoàn thiện thể chế về phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ
thông tin và truyền thông, giáo dục và đào tạo, để tiếp cận cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao. Huy động mạnh mẽ doanh nghiệp tham gia vào đào tạo, nhất
là trong các lĩnh vực đang thiếu nhân lực như công nghệ thông tin, du
lịch, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp
trong và ngoài nước. Thực hiện đồng bộ ba nội dung về quy hoạch lại mạng
lưới, tự chủ đại học và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường lao động, đặc
biệt gắn với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng dần quy mô các
chương trình đào tạo chất lượng cao, các chuyên ngành khoa học liên quan
đến công nghệ, kỹ thuật và những ngành thị trường có nhu cầu tuyển dụng
cao; tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển thị
trường lao động một cách đầy đủ, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động.
Rà soát mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đổi mới quản lý, giao
quyền tự chủ, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục nghề nghiệp, tăng
cường công tác tư vấn nghề nghiệp, việc làm, và hỗ trợ kiến thức khởi
nghiệp cho người dân, đặc biệt là thanh niên.
Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiệu quả; tập trung rà soát, xây dựng,
điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch liên quan đến kết cấu hạ tầng đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030 theo các quy định pháp luật về quy hoạch.
Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tăng tính hấp dẫn để khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển hạ tầng, nhất là
hạ tầng giao thông, lưới điện, thủy lợi, hạ tầng thích ứng với biến đổi
khí hậu... Kiểm soát chặt chẽ tiến trình đô thị hóa gắn với công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Từng bước xây dựng các đô thị đồng bộ về
kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; đô thị thông minh, xanh, tiết
kiệm năng lượng, thích ứng với biến đối khí hậu. Hoàn thiện thể chế,
chính sách, pháp luật về đối tác công tư.
Chấn chỉnh những bất cập trong hình thức đầu tư đối tác công tư, khẩn
trương rà soát tổng thể hình thức đầu tư BOT, các trạm BOT giao thông
đường bộ nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, bảo đảm hài hòa lợi ích
giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân; lựa chọn nhà đầu tư có năng
lực về tài chính và chuyên môn, kỹ thuật. Tập trung nguồn lực, đẩy nhanh
tiến độ thực hiện các dự án quan trọng, công trình thiết yếu có quy mô
lớn, có sức lan tỏa, kết nối giữa các vùng miền, nhất là hạ tầng tại các
khu vực trọng điểm, đô thị lớn, như tuyến đường bộ cao tốc Bắc-Nam, dự
án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, cảng biển, điện và năng lượng,
các dự án giảm ùn tắc giao thông; đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành
tuyến đường sắt đô thị Cát Linh-Hà Đông, tuyến Metro Bến Thành-Suối
Tiên, tuyến hành lang ven biển phía Bắc và phía Nam; kết nối một số
tuyến giao thông trong tổng thể hành lang Đ ông Tây, hành lang Xuyên
Á...
Nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động
Nghị quyết nêu rõ, tạo chuyển biến rõ nét và thực chất trong cơ cấu lại
nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng
tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong
đó, tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt, hiệu quả các Chương trình
hành động triển khai các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Quốc
hội, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Sớm phê duyệt và tổ chức thực hiện đồng bộ tất cả các đề án, kế hoạch cơ
cấu lại ngành, lĩnh vực trọng tâm. Nâng cao trách nhiệm của người đứng
đầu trong việc thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đánh giá, giám sát và chỉ
đạo thực hiện, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị,
các ngành, các cấp trong năm 2018.
Tổ chức thực hiện quyết liệt và khẩn trương Nghị quyết của Quốc hội về
thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật các tổ chức tín dụng. Đẩy mạnh triển khai Đề án cơ
cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu đến năm 2020. Tạo
chuyển biến căn bản về quản trị ngân hàng, hiệu quả và an toàn hoạt
động. Tập trung xử lý có hiệu quả các tổ chức tín dụng yếu kém và nợ xấu
theo nguyên tắc thị trường, không hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà
nước. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát; xử lý nghiêm các vi phạm
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng và thị trường tiền tệ. Đẩy
mạnh phát triển thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm; chú trọng
phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp; có giải pháp bảo đảm phát
triển thị trường chứng khoán lành mạnh, an toàn, bền vững.
Đẩy mạnh cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng tăng dần tỷ trọng thu
nội địa; đảm bảo tỷ trọng chi đầu tư phát triển 26%, tỷ trọng chi thường
xuyên 64,1% trong tổng chi ngân sách nhà nước; bảo đảm chi an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội và quốc phòng, an ninh theo dự toán Quốc hội giao.
Cơ cấu lại đầu tư công gắn với cơ cấu lại thu chi ngân sách nhà nước và
bảo đảm bền vững an toàn nợ công. Tăng cường hiệu quả đầu tư công, bảo
đảm cân đối về đầu tư phát triển, phấn đấu đạt tỷ lệ tổng vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội khoảng 33%-34% GDP; tăng tỷ trọng vốn đầu tư tư
nhân trong tổng đầu tư phát triển toàn xã hội lên khoảng 41%; giá trị hệ
số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) năm 2018 đạt khoảng 6,0. Xây dựng
định hướng thu hút có chọn lọc các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường; triển
khai vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài; đẩy mạnh
liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI.
Thành lập Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tổ chức phân
công, phấn cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu
nhà nước đối với doanh nhiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp. Đẩy mạnh cổ phần hóa gắn với niêm yết trên thị trường chứng
khoán và thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần
nắm giữ theo các nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch, đúng pháp
luật và đảm bảo lợi ích cao nhất của Nhà nước. Tạo chuyển biến căn bản
trong việc xử lý các doanh nghiệp, dự án thua lỗ. Cơ bản hoàn thành sắp
xếp, đổi mới các công ty nông, lâm trường theo Nghị quyết 30-NQ/TW của
Bộ Chính trị và Nghị định 118/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Đẩy mạnh phong
trào khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã kiểu mới, thu
hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Sớm
ban hành các văn bản hướng dẫn và thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Tăng cường quản lý, hạch toán và thống kê khu vực kinh tế phi
chính thức. Phấn đấu thành lập mới 135 nghìn doanh nghiệp trong năm
2018.
Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động đơn vị sự nghiệp công lập;
tăng quyền tự chủ và thúc đẩy xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập
theo tinh thần Nghị quyết 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII.
Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
của tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu, xây dựng chương trình quốc gia về
tăng trưởng năng suất lao động; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ,
khoa học quản lý, chất lượng đào tạo nghề, cải thiện quản trị nhà nước,
quản trị doanh nghiệp, phấn đấu năng suất lao động xã hội tăng trên 6%;
cải thiện tích cực tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP) trong tăng trưởng GDP, năm 2018 đạt trên khoảng 46%; cải thiện các
mặt của lĩnh vực xã hội, nâng dần giá trị và vị trí xếp hạng về chỉ số
phát triển con người (HDI) của Việt Nam trên bảng xếp hạng của thế giới.
Phát triển nông nghiệp đi đôi với phát triển công nghiệp chế biến sâu,
chế biến tinh, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, các quy trình sản
xuất tiên tiến, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp an toàn, nông nghiệp hữu
cơ, nông nghiệp sạch. Tổ chức lại một cách thực chất sản xuất nông
nghiệp, khuyến khích phát triển liên kết theo chuỗi giá trị, từ sản xuất
đến chế biến, tiêu thụ; giảm chi phí trung gian để nâng cao thu nhập
cho nông dân; nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản
Việt Nam; phát triển kinh tế rừng, kinh tế biển; thực hiện đồng bộ các
giải pháp để khắc phục tình trạng đánh bắt hải sản trái phép, không đăng
ký, không khai báo.
Đẩy mạnh thực hiện Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới
theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
1819/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2017 và Chương trình mục tiêu quốc gia
Xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu năm 2018 có ít nhất 52 huyện và 37% xã
đạt chuẩn nông thôn mới; tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực nông, lâm
nghiệp, thủy sản đạt khoảng 3,0%, kim ngạch xuất khẩu đạt 36-37 tỷ USD.
Phát triển mạnh công nghiệp, trọng tâm là các ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo; công nghiệp phục vụ nông nghiệp; công nghiệp hỗ trợ gắn
với liên kết chuỗi giá trị của các tập đoàn đa quốc gia. Tập trung đổi
mới công nghệ, thân thiện với môi trường trong các ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo, năng lượng, khai khoáng... Phấn đấu tốc độ tăng trưởng
GDP của khu vực công nghiệp và xây dựng đạt khoảng 7,7%, trong đó công
nghiệp khoảng 7,3%, xây dựng khoảng 9,2%.
Tập trung phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, dịch vụ
hỗ trợ nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ công nghệ thông tin, truyền
thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics, du lịch...; thúc đẩy
xuất khẩu các ngành dịch vụ có tiềm năng; minh bạch, hiện đại hóa thị
trường vui chơi có thưởng và xổ số. Tăng cường và đổi mới công tác xúc
tiến, quảng bá du lịch; phát triển sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo;
xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam và từng vùng, từng địa phương nhằm
từng bước phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đạt
khoảng 15 triệu lượt khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Phấn đấu tốc độ
tăng trưởng GDP của khu vực dịch vụ đạt khoảng 7,4%.
Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)
Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển kinh
tế vùng, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả cơ chế, tập trung chỉ đạo điều
phối liên kết vùng, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế so sánh của từng
vùng, từng địa phương. Phát huy mạnh mẽ vai trò của các vùng kinh tế
trọng điểm, các trung tâm kinh tế lớn, các thành phố lớn; chủ động thúc
đẩy liên kết giữa các vùng với các nước trong khu vực trong điều kiện
hội nhập.
Bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Thực hiện đầy đủ và toàn diện các chính sách bảo đảm an sinh và nâng cao
phúc lợi xã hội. Tập trung thực hiện tốt chính sách người có công với
cách mạng, giải quyết căn bản hồ sơ tồn đọng, trong đó hoàn thành dứt
điểm chương trình hỗ trợ người có công về nhà ở theo Quyết định số
22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ trong năm 2018.
Đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội, nhà ở giá thấp, tiếp tục triển khai có
hiệu quả các chương trình phát triển nhà ở quốc gia, nhất là các chương
trình hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo. Tăng cường chỉ đạo, ưu tiên bố trí
nguồn lực bảo đảm hạ tầng xã hội, trước hết là nhà trẻ, mẫu giáo, trường
học ở các khu công nghiệp tập trung. Tập trung thực hiện các giải pháp
giảm nghèo bền vững, phấn đấu đạt mục tiêu tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn
nghèo tiếp cận đa chiều) giảm 1-1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%.
Thực hiện kịp thời, đồng bộ, có hiệu quả các chính sách đối với đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi theo các chính sách, đề án đã được phê
duyệt, nhất là các chính sách đặc thù. Phát triển thị trường lao động,
tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 4%;
hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; thực hiện nghiêm quy định về an
toàn, vệ sinh lao động.
Chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, 21-NQ/TW
của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, đặc biệt
là đổi mới hoạt động y tế cơ sở gắn với quản lý chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho nhân dân trên địa bàn và chấn chỉnh công tác quản lý, phân phối,
bán lẻ dược phẩm. Củng cố, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả
hoạt động của y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe ban đầu, ngăn chặn
kịp thời dịch bệnh. Giảm quá tải bệnh viện tuyến trên, đưa 5 bệnh
viện trung ương và tuyến cuối vào hoạt động, phát triển y tế ngoài
công lập, phấn đấu đạt tỷ lệ 26 giường bệnh trên một vạn dân (không
tính giường trạm y tế xã), tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế cao hơn
88,5%. Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả đấu thầu thuốc tập trung. Điều
chỉnh giá dịch vụ y tế gắn với lộ trình bảo hiểm y tế toàn
dân; chống lạm dụng, trục lợi quỹ bảo hiểm y tế. Tăng cường công tác
thanh, kiểm tra hoạt động khám chữa bệnh, bảo đảm an toàn trong cơ sở
khám chữa bệnh. Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý vệ
sinh an toàn thực phẩm; giảm thiểu ô nhiễm sinh học và tồn dư hóa chất
kháng sinh trong sản xuất, kinh doanh nông sản thực phẩm; xử lý nghiêm
các trường hợp làm hàng giả, hàng kém chất lượng ảnh hưởng đến sức khỏe,
quyền lợi của người tiêu dùng.
Rà soát quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo trong cả
nước, trọng tâm là sư phạm gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
và cán bộ quản lý các cấp, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông. Tập trung xây dựng chương trình, sách
giáo khoa, tập huấn, bồi dưỡng giáo viên. Đẩy mạnh định hướng nghề
nghiệp và phân luồng trong giáo dục phổ thông. Tăng cường xã hội hóa
giáo dục, khuyến khích thành lập mới các trường tư thục chất lượng cao.
Đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn với trách nhiệm giải
trình của các trường đại học; đổi mới cơ chế quản trị, quản lý các
trường phổ thông. Nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ ở các cấp, trình
độ đào tạo; ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và quản lý
giáo dục. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh
nghiệp trong và ngoài nước trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ. Hoàn thiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Giáo dục và Luật Giáo dục đại học.
Thúc đẩy phát triển thị trường khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo,
đặt doanh nghiệp vào vị trí trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc
gia. Đổi mới cơ chế hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp. Tiếp tục xây dựng và
triển khai các cơ chế, chính sách để khuyến khích thực hiện các nhiệm vụ
khoa học và công nghệ gắn với doanh nghiệp và phát triển theo chuỗi giá
trị các sản phẩm trọng điểm của quốc gia. Hoàn thiện hành lang pháp lý
hướng dẫn thi hành Luật Chuyển giao công nghệ để hỗ trợ doanh nghiệp ứng
dụng, đổi mới công nghệ. Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức triển khai đề
án “Tăng cường, đổi mới hoạt động đo lường để hỗ trợ doanh nghiệp Việt
Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế giai đoạn đến năm
2025, định hướng đến năm 2030”; Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia; tập
trung hỗ trợ phát triển và khai thác tài sản trí tuệ; Đề án “Phát triển
Hệ tri thức Việt số hóa” nhằm tạo hệ sinh thái và dữ liệu lớn để phổ
biến tri thức khoa học và thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo…
Chủ động triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để tăng cường năng
lực tiếp cận xu hướng công nghệ tiên tiến, hiện đại; chủ động nắm bắt,
khai thác có hiệu quả các cơ hội to lớn của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư mang lại. Tập trung hoàn thiện cơ chế, thể chế, chính sách,
pháp luật theo kịp kinh tế số, công nghiệp thông minh. Xây dựng kết cấu
hạ tầng đồng bộ, trong đó, công nghệ thông tin và hạ tầng thông tin đóng
vai trò hạ tầng của hạ tầng. Phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu của kỷ nguyên số; phát triển doanh nghiệp số. Tiếp tục xây dựng,
ban hành và triển khai thực hiện chính sách ưu đãi tín dụng cho doanh
nghiệp tham gia ứng dụng, nghiên cứu phát triển, chuyển giao các công
nghệ chủ chốt. Xây dựng Chương trình trọng điểm cấp quốc gia về cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để phục vụ các nhà khoa học, doanh
nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, làm chủ và chuyển giao công nghệ trong các
lĩnh vực của cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, làm cơ sở nhân rộng các
kết quả ra khối doanh nghiệp.
Phát triển toàn diện hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia, thúc
đẩy khởi nghiệp trong mọi ngành, mọi lĩnh vực; hỗ trợ, thu hút đầu tư
vào hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hỗ trợ thành lập, phát triển
và liên kết hoạt động các không gian làm việc chung, vườn ươm, trung
tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các tổ chức thúc đẩy kinh doanh khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo. Tập trung hợp tác theo chiều sâu với các đối
tác quốc tế, kết nối cộng đồng khoa học và công nghệ người Việt Nam ở
nước ngoài và cộng đồng trong nước để trao đổi, học tập kinh nghiệm
triển khai các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Chú trọng
các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo giải quyết các khó khăn, đặc biệt là trong tiếp cận nguồn vốn.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lễ hội. Đổi mới, khắc
phục bệnh hình thức trong các phong trào xây dựng đời sống văn hóa, gia
đình văn hóa. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình hành động của
Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị lần
thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước. Ưu tiên nguồn lực và thực hiện tốt các chính sách phát triển văn
học nghệ thuật, đội ngũ văn nghệ sỹ, trí thức. Đẩy mạnh bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa dân tộc, tăng cường công tác tuyên truyền, tổ chức
các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quảng bá và giới thiệu văn hóa Việt
Nam ra nước ngoài, chú trọng cho cộng đồng người Việt Nam sinh sống, làm
việc ở nước ngoài; kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường
Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, triển khai quyết liệt các giải
pháp quản lý chặt chẽ đất đai, khắc phục tình trạng lãng phí tài nguyên
đất, đất để hoang hóa hoặc sử dụng sai mục đích; chống thất thoát nguồn
thu ngân sách nhà nước từ lợi ích chênh lệch giá chuyển nhượng quyền sử
dụng đất do quy hoạch hoặc các dự án hạ tầng đem lại. Khai thác, sử dụng
hiệu quả tài nguyên nước, tăng cường hợp tác quốc tế trong việc khai
thác, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn nước xuyên biên giới, nhất là
hệ thống sông Mê Công. Thực hiện nghiêm chủ trương đóng cửa rừng tự
nhiên và các quy định pháp luật về bảo vệ, phát triển rừng, bảo tồn đa
dạng sinh học, phấn đấu đạt chỉ tiêu tỷ lệ che phủ rừng khoảng 41,6%; xử
lý nghiêm, triệt để tình trạng khai thác và phá rừng bất hợp pháp, khai
thác tài nguyên, khoáng sản, cát, đá, sỏi,... trái phép.
Triển khai xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu ngành
tài nguyên và môi trường, nhất là về đất đai, quan trắc tài nguyên và
môi trường, cơ sở dữ liệu liên ngành về đồng bằng sông Cửu Long; xây
dựng và khuyến khích xã hội hóa hệ thống quan trắc, cảnh báo về tài
nguyên và môi trường, kết nối giữa trung ương với địa phương. Tăng cường
công tác kiểm soát đặc biệt đối với các cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường cao. Triển khai hệ thống tiêu chuẩn về môi trường nhằm
lựa chọn, sàng lọc loại hình sản xuất và công nghệ sản xuất trong thu
hút đầu tư, không cấp phép cho các dự án không đảm bảo tiêu chuẩn môi
trường. Hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về môi
trường. Ban hành và thực hiện cơ chế đột phá huy động nguồn lực, thu hút
đầu tư, xã hội hóa cho công tác bảo vệ môi trường. Xây dựng và hoàn
thành phương án triển khai công tác điều tra, đánh giá, phân loại và xây
dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về nguồn thải. Phấn đấu đạt mục tiêu 88%
khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải
tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Triển khai lồng ghép mục tiêu thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ
phát thải khí nhà kính theo các cam kết quốc tế của Việt Nam vào các Kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội ngành và địa phương. Tăng cường năng
lực dự báo, cảnh báo thiên tai, chủ động phòng chống, giảm nhẹ thiên tai
và thích ứng với biến đổi khí hậu; rà soát quy hoạch, bố trí lại dân cư
tại các khu vực có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất... Thực
hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ kịp thời cho
người dân, thực hiện các giải pháp chuyển đổi cơ cấu sản xuất, mùa vụ,
ngành nghề phù hợp, hiệu quả gắn với thị trường tại các vùng tái định cư
và vùng bị tác động bởi thiên tai, biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn.
Nghiên cứu và triển khai ứng dụng các mô hình kiến trúc, vật liệu xây
dựng xanh, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản, tiết kiệm năng lượng, thân
thiện với môi trường; vật liệu xây dựng sử dụng cho các công trình ven
biển và hải đảo; nhà ở thích ứng với biến đổi khí hậu. Thực hiện đồng bộ
các giải pháp phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển, giải quyết hiện
tượng sụt lún nền đất, ngập lụt ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long; xây dựng quy hoạch tích hợp, phát triển hệ thống hồ
chứa điều tiết thích ứng với biến đổi khí hậu, lũ lụt, hạn hán và triển
khai đồng bộ các giải pháp phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu
Long.
Thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính
Tập trung xây dựng, triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết 18-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập. Trọng tâm là nhanh chóng
kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước gắn với cơ cấu lại
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cải cách tiền lương; thu gọn
đầu mối bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
tổng cục.... Hoàn thiện tiêu chí phân loại, điều kiện thành lập các đơn
vị sự nghiệp công lập. Trong năm 2018, phấn đấu giảm khoảng 2,5% số đơn
vị sự nghiệp công lập.
Quản lý chặt chẽ số lượng biên chế công chức, biên chế sự nghiệp; dừng
việc giao bổ sung biên chế; chấm dứt việc tự phê duyệt và giao biên chế
vượt quá số đã được cấp có thẩm quyền giao; có kế hoạch và giải pháp để
giải quyết dứt điểm số biên chế vượt quá số biên chế được giao. Các cơ
quan, đơn vị chưa sử dụng hết số biên chế được giao phải xem xét, cắt
giảm phù hợp. Trong năm 2018, giảm 1,7% biên chế công chức so với số
giao năm 2015; giảm tối thiểu 2,5% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ
ngân sách nhà nước so với số giao năm 2015.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong xây dựng pháp luật, thực
thi công vụ và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà
nước từ trung ương đến cơ sở; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; tạo
động lực và áp lực, chuyển biến thái độ xử lý gắn với trách nhiệm chính
trị trong thực thi công vụ đối với cán bộ, công chức, nhất là người
đứng đầu. Kịp thời thay thế các cán bộ, công chức trì trệ, cản trở,
không hoàn thành nhiệm vụ. Xử lý nghiêm và kịp thời theo quy định của
pháp luật các tổ chức và cá nhân có vi phạm trong thực thi công vụ. Đẩy
mạnh đổi mới phương thức, lề lối làm việc của cơ quan hành chính nhà
nước; giảm hội họp, giấy tờ hành chính và chế độ báo cáo, tăng cường họp
trực tuyến và tin học hóa các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước; khắc phục tình trạng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chồng chéo;
xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả; nhân rộng mô
hình trung tâm hành chính công hoạt động hiệu quả, cung cấp dịch vụ công
trực tuyến; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ được
giao; xử lý nghiêm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, vi phạm pháp luật,
sách nhiễu người dân và doanh nghiệp.
Xây dựng Chính phủ điện tử phục vụ người dân. Đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin, xử lý hồ sơ công việc trên mạng máy tính trong các cơ
quan hành chính, trước hết là ở các bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố. Thực hiện kết nối liên thông các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu
phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính quyền các
cấp. Tạo chuyển biến tích cực trong mối quan hệ giữa nhà nước với nhân
dân thông qua việc thực hiện hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông
và các dịch vụ công trực tuyến; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ
3, mức độ 4. Xử lý dứt điểm và công khai kết quả xử lý các phản ánh,
kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về cơ chế, chính sách, thủ tục
hành chính. Tăng cường thực hiện công tác bảo đảm an toàn, có phương án
ứng phó, khắc phục kịp thời các sự cố mất an toàn thông tin, an ninh
mạng.
Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu các ngành, các cấp trong việc
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử; phấn đấu nâng cao
chỉ số đánh giá về Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc đối với cả ba
nhóm chỉ số dịch vụ công trực tuyến (OSI), hạ tầng viễn thông (TII) và
nguồn nhân lực (HCI); phối hợp với các cơ quan đánh giá của Liên hợp
quốc để kịp thời cung cấp thông tin chính xác, cập nhật về tình hình xây
dựng, triển khai Chính phủ điện tử tại các cơ quan nhà nước của Việt
Nam.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng. Tập trung chỉ đạo
điều tra các vụ án tham nhũng lớn để truy tố, xử lý nghiêm minh trước
pháp luật theo tinh thần không có vùng cấm, tất cả hành vi vi phạm để
phải được xử lý đúng pháp luật. Mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế về
phòng, chống tham nhũng; tiếp thu những kinh nghiệm tốt của thế giới để
nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam; đẩy mạnh
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; triển khai thanh tra theo kế
hoạch gắn với thanh tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm, xử lý nghiêm
những trường hợp vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tập trung vào
các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, dư luận có nhiều quan
tâm, có nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo như: Đất đai, tài nguyên khoáng
sản, các dự án đầu tư theo hình thức BOT, BT, cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước, tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, đầu tư nước ngoài,...
Tập trung rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật và nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và thực hiện tốt
các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu
lực pháp luật, phấn đấu đạt tỷ lệ trên 85%. Xử lý nghiêm những trường
hợp kích động, lôi kéo công dân khiếu kiện đông người hoặc lợi dụng
khiếu kiện để gây rối.
Kiên quyết xử lý nghiêm các vụ án kinh tế, tham nhũng
Kiên quyết xử lý nghiêm các vụ án kinh tế, tham nhũng; không hình sự hóa
các quan hệ dân sự kinh tế; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp
phòng, chống tội phạm, kiên quyết xử lý theo quy định của pháp luật các
tội phạm nguy hiểm, tội phạm có tổ chức, chống người thi hành công vụ;
triển khai tốt lực lượng và cơ sở vật chất sẵn sàng ứng phó kịp thời,
hiệu quả các sự cố, rủi ro thiên tai, cứu hộ, cứu nạn.
Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các ngành, các cấp trong việc
triển khai, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp hiệu quả bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông và phòng, chống cháy nổ; chống ùn tắc
giao thông tại các thành phố lớn, nút giao thông quan trọng; giám sát và
quản lý tốt vận tải, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ về giao thông thông
minh trong quản lý, khai thác hệ thống kết cấu hạ tầng, phấn đấu giảm
đáng kể tình hình tai nạn giao thông cả về số vụ, số người chết và bị
thương so với năm 2017. Địa phương sử dụng số kinh phí bổ sung có mục
tiêu từ ngân sách Trung ương cho địa phương để chi cho các lực lượng
thực hiện nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn,
trong đó bố trí 70% cho lực lượng công an tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, bố trí 30% còn lại cho các lực lượng khác của địa phương
tham gia công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn.
Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, nhất là liên quan đến thu
hồi các khoản nợ của các tổ chức tín dụng; tập trung thi hành dứt điểm
các vụ việc có điều kiện thi hành án dân sự, bảo đảm thi hành dứt điểm
các bản án, quyết định của tòa án về vụ án hành chính còn tồn đọng.
Tiếp tục mở rộng và đưa các mối quan hệ với các đối tác, trước hết là
các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng, đi vào chiều
sâu, ổn định, hiệu quả. Tổ chức tốt các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao
Đảng và Nhà nước. Tập trung tranh thủ sự hỗ trợ và thúc đẩy hợp tác
trong những lĩnh vực Việt Nam quan tâm và các đối tác có thế mạnh về
thương mại, đầu tư, công nghệ cao, phát triển bền vững, an ninh biển...
Nâng cao hiệu quả tham gia, chủ động, tích cực đóng góp vào xây dựng,
định hình các tổ chức, diễn đàn đa phương, trọng tâm là chuẩn bị tốt
việc đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, vận động các nước ủng hộ Việt
Nam ứng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2020-2021, đảm nhận tốt thành viên Hội đồng Kinh tế-Xã hội của
Liên hợp quốc 2016-2018 và Hội đồng Chấp hành UNESCO 2015-2019, thực
hiện nghiêm túc các cam kết trong APEC, đặc biệt là các sáng kiến do
Việt Nam đề xuất và được thông qua trong Tuần lễ Cấp cao APEC 2017, tổ
chức tốt Hội nghị Thượng đỉnh Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) lần thứ 6
và Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN 2018.
Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, đồng thời kiên quyết, kiên trì
bảo vệ vững chắc chủ quyền và các lợi ích chính đáng của Việt Nam. Thúc
đẩy đạt kết quả thực chất trong giải quyết các vấn đề biên giới trên
biển và các vấn đề biên giới đất liền còn tồn đọng với các nước. Đẩy
mạnh việc thực hiện nghiêm túc Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông
(DOC), thúc đẩy đàm phán, xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông
Phê duyệt và tổ chức thực hiện đề án quy hoạch phát triển và quản lý báo
chí toàn quốc đến năm 2025 theo kết luận của Bộ Chính trị, trước hết
thực hiện ở Bộ Thông tin và Truyền thông và các bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí; đề cao
tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của người đứng đầu các ngành, các
cấp; thực hiện nghiêm quy chế người phát ngôn và cung cấp thông tin cho
báo chí; chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về sự
lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của Đảng và Nhà nước và những vấn đề dư luận
quan tâm; tình hình kinh tế-xã hội của đất nước để tạo sự đồng thuận xã
hội trong thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội,
tạo hứng khởi trong sản xuất, kinh doanh. Đấu tranh, phản bác thông tin
sai sự thật, trái với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước và các
giải pháp chỉ đạo điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; xử lý
nghiêm các trường hợp lợi dụng dân chủ, đưa thông tin xấu, độc, sai sự
thật.
Bên cạnh đó, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, làm tốt công
tác dân vận, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể trong vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước góp phần tạo đồng thuận xã hội.
Tăng cường công tác phối hợp giữa Chính phủ và các cơ quan của Đảng, Nhà
nước, các đoàn thể quyết tâm thực hiện thành công nhiệm vụ, mục tiêu và
giải pháp đề ra. Cụ thể, đẩy mạnh phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương với các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Hội đồng Nhân dân
các cấp trong việc kiểm tra, theo dõi, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả
quá trình thực hiện Nghị quyết.
Tăng cường phối hợp giữa Chính phủ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, cơ quan Trung ương của các đoàn thể chỉ đạo tuyên truyền,
vận động đoàn viên, hội viên, phát huy quyền làm chủ các tổ chức xã
hội, hội, hiệp hội và của nhân dân trong mọi lĩnh vực, tạo sự đồng thuận
xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân thực hiện mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội năm 2018 theo Nghị quyết của Quốc hội và các giải
pháp điều hành của Chính phủ tại Nghị quyết này./.
Theo TTXVN