(TG)- Kinh tế biển xanh được hiểu là việc sử dụng bền vững tài nguyên đại dương, cải thiện sinh kế và việc làm, sức khỏe các hệ sinh thái đại dương.
Kinh tế biển xanh là cách tiếp cận mới trong phát triển bền vững kinh tế biển. Hội nghị cấp cao khu vực Đông Á (EAS) đưa ra Tuyên bố Changwon vào năm 2012, trong đó đưa ra định nghĩa: “kinh tế biển xanh là một mô hình kinh tế thực tế dựa vào đại dương thông qua sử dụng cơ sở hạ tầng và công nghệ xanh, các cơ chế tài chính sáng tạo, và các thiết chế chủ động để đáp ứng mục tiêu kép là bảo vệ đại dương và bờ biển và tăng cường đóng góp tiềm năng của nó cho phát triển bền vững, bao gồm cải thiện sự thịnh vượng cho con người, giảm thiểu rủi ro môi trường và sự khan hiếm sinh thái”(1).
Tại Hội nghị Đại dương thế giới năm 2015, kinh tế biển xanh được cho là "một nền kinh tế biển phát triển bền vững, ở đó hoạt động kinh tế biển cân bằng với khả năng đáp ứng của các hệ sinh thái biển một cách liên tục”. Trước đó, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP, 2013) cho rằng: “Kinh tế biển xanh là cách tiếp cận dựa trên tầm nhìn về cải thiện sự thịnh vượng và công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể những rủi ro môi trường và sự khan hiếm tài nguyên”. Ngân hàng Thế giới đưa ra định nghĩa: “Kinh tế biển xanh là việc sử dụng bền vững tài nguyên đại dương, cải thiện sinh kế và việc làm, sức khỏe các hệ sinh thái đại dương”.
Báo cáo “Kinh tế biển xanh Việt Nam hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển” được Bộ Tài nguyên và Môi trường và Chương trình phát triển Liên Hợp quốc công bố (tháng 5/2022) cũng đã làm rõ khái niệm kinh tế biển xanh và đánh giá thực trạng một số ngành kinh tế biển chính của Việt Nam, từ đó xác định tiềm năng và xây dựng kịch bản phát triển kinh tế biển xanh bền vững trong tương lai.
Theo đó, kinh tế biển xanh được hiểu là việc sử dụng bền vững tài nguyên đại dương, cải thiện sinh kế và việc làm, sức khỏe các hệ sinh thái đại dương.
Việt Nam là quốc gia biển, với đường bờ biển dài hơn 3.260 km. Kinh tế biển là động lực, tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế. Các tỉnh, thành phố ven biển Việt Nam chiếm hơn 50% dân số cả nước, phần lớn lao động làm việc trong các ngành nghề liên quan đến biển.
Việt Nam có lợi thế về giao thông đường biển, khi gần các tuyến đường hàng hải quốc tế và khu vực. Vùng biển Việt Nam nằm tại khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao và là cầu nối giữa nhiều cường quốc kinh tế và chính trị trên thế giới. Đây là những điều kiện thuận lợi để Việt Nam phát triển ngành hàng hải, công nghiệp tàu thủy và logistics…
Nhận thức đầy đủ vị thế, vai trò và tầm quan trọng của kinh tế biển, Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng để phát triển bền vững kinh tế biển. Tuy nhiên, hiện, quy mô kinh tế biển của nước ta còn khiêm tốn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý; hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn... ở ven biển còn nhỏ, trang bị thô sơ, năng lực còn yếu; môi trường biển biến đổi theo chiều hướng xấu; đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy sản đang sa sút nghiêm trọng, thiếu bền vững. Trong khi đó, phương thức quản lý biển mới, tiên tiến như quản trị theo không gian, quản lý tổng hợp vùng bờ còn chậm được áp dụng; tình trạng khai thác, sử dụng biển và hải đảo còn thiếu bền vững, vẫn còn tình trạng khai thác tận diệt; lãng phí tài nguyên biển làm suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản, gây ô nhiễm môi trường; đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng biển, đảo còn dàn trải, thiếu chiều sâu, chưa tạo đột phá và vươn ra vùng biển quốc tế. Đến nay, đóng góp của 28 tỉnh, thành ven biển vào GDP cả nước hiện đã vượt ngưỡng 60%.
Một số khuyến nghị quan trọng để thúc đẩy kinh tế biển xanh tại Việt Nam, góp phần thực hiện thành công Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc, bao gồm các mục tiêu số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và tài nguyên biển.
Theo Báo cáo “Kinh tế biển xanh Việt Nam hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển” cần tập trung vào 6 ngành kinh tế biển chính là ngư nghiệp, năng lượng tái tạo, dầu khí, du lịch, giao thông vận tải, môi trường và hệ sinh thái, được kỳ vọng là tài liệu quan trọng, nhằm hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế biển xanh, thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết số 36-NQ/TW.
Đối với năng lương tái tạo biển, báo cáo khuyến nghị Việt Nam cần mở rộng nhanh chóng các nguồn năng lượng tái tạo biển đạt 10.000 MW lắp đặt vào năm 2030. Trong đó, khoảng 4.500 MW gió gần bờ (chủ yếu là tại ĐBSCL) và 5.500 MW gió ngoài khơi, chủ yếu là tại khu vực Nam Trung Bộ.
Báo cáo cũng khuyến nghị thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong các hoạt động sản xuất dầu khí, tăng cường bảo vệ môi trường, tham gia vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo trên biển mới nổi.
Với lĩnh vực thủy sản và nuôi trồng thủy sản, Báo cáo khuyến nghị giảm giảm sản lượng đánh bắt thủy sản xuống mức sản lượng bền vững tối đa (khoảng 2,7 triệu tấn mỗi năm) thông qua việc giảm sản lượng đánh bắt 2% mỗi năm, duy trì diện tích nuôi trồng thủy sản;và cải tiến quản lý đến năng suất an toàn…
Đối với lĩnh vực du lịch, Báo cáo khuyến nghị thúc đẩy tăng trưởng khách quốc tế 8-10%/năm và khách nội địa 5-6%/năm đến năm 2030; đưa các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm cả nước biển dâng) vào quy hoạch du lịch.
Ngoài ra, Báo cáo khuyến nghị tăng vận tải biển lên 20,6% vào năm 2030, nâng khối lượng hàng hóa vận chuyển lên 787 triệu tấn và mở rộng vận tải nội địa lên 289 triệu tấn.
Hải Lam