Thứ Sáu, 22/11/2024
Bảo hiểm xã hội
Thứ Sáu, 29/4/2022 11:38'(GMT+7)

Phát triển phương thức điện tử trong hoạt động thanh tra kiểm tra ngành bảo hiểm xã hội

Toàn quốc đã có trên 1,5 triệu người hưởng chế độ ốm đau do mắc Covid-19

Toàn quốc đã có trên 1,5 triệu người hưởng chế độ ốm đau do mắc Covid-19

Ông Nguyễn Hoàng Phương - Phó Giám đốc Trung tâm CNTT - BHXH Việt Nam đã cho biết như vậy tại buổi họp báo ngày 28/4 do BHXH Việt Nam tổ chức.

Ông Nguyễn Hoàng Phương - Phó Giám đốc Trung tâm CNTT - BHXH Việt Nam phát biểu.

Ông Nguyễn Hoàng Phương - Phó Giám đốc Trung tâm CNTT - BHXH Việt Nam phát biểu.

Theo ông Nguyễn Hoàng Phương, để tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý rủi ro, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ cũng như răn đe, phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHYT, Ngành đã và đang xây dựng phần mềm “Dấu hiệu nhận diện hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT”. Phần mềm được kết nối với các phền mềm, công cụ quản lý nghiệp vụ khác của ngành BHXH Việt Nam, thường xuyên tự động cập nhật, phân tích dữ liệu để đưa ra các dấu hiệu nhận diện vi phạm pháp luật BHXH, BHTN, BHYT thuộc 03 lĩnh vực nghiệp vụ (thu BHXH, BHTN, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; giải quyết, thanh toán các chế độ BHXH, BHTN, BHYT) của 05 nhóm đối tượng (cá nhân, đơn vị trong ngành BHXH Việt Nam; cơ sở KCB; đơn vị SDLĐ; đại lý thu, đại diện chi trả; NLĐ, người tham gia và hưởng chế độ). Việc xây dựng phần mềm đảm bảo tính bảo mật, an toàn thông tin.

Trong thời gian tới, việc tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động TTKT và thay đổi phương pháp TTKT là một tất yếu khách quan, để thực hiện tốt vấn đề này, cần đáp ứng một số yêu cầu sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu nghiệp vụ của Ngành theo hướng dữ liệu tập trung toàn quốc và có sự đồng bộ, liên kết giữa các cơ sở dữ liệu thu, chi, hưởng chế độ để đáp ứng được yêu cầu về thời gian, hiệu suất khai thác.

Hai là, có sự liên thông dữ liệu với các ngành hữu quan (Ngành: Thuế, Tư pháp, Công an, Kế hoạch và Đầu tư, Lao động - Thương binh và Xã hội) và có quy chế phối hợp trong khai thác, sử dụng dữ liệu.

Ba là, đảm bảo cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ như: đường truyền Internet, thiết bị mạng, máy tính, thiết bị lưu trữ và các phần mềm, giải pháp an ninh, bảo mật… để việc ứng dụng CNTT trong hoạt động TTKT được kịp thời, an toàn, hiệu quả.

Bốn là, hoàn thiện Phần mềm “Dấu hiệu nhận diện hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT”.

Năm là, sửa đổi pháp luật thanh tra cho phù hợp với tình hình mới về chuyển đổi số, cụ thể: xác định giá trị pháp lý “dữ liệu” của các đơn vị như là một báo cáo quyết toán và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ là dữ liệu trong hoạt động TTKT.

Việc kết hợp phương pháp TTKT truyền thống và phương pháp điện tử đã đem lại hiệu quả rõ nét trong hoạt động TTKT, trong thời gian tới, BHXH Việt Nam sẽ tiếp tục nghiên cứu tăng cường ứng dụng các giải pháp công nghệ trong thực hiện nhiệm vụ TTKT để cải tiến phương pháp, nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian làm việc song vẫn đảm bảo tuân thủ đúng quy trình quy định của pháp luật về thanh tra, xử lý vi phạm hành chính. Đặc biệt, với việc xây dựng thành công hệ thống tự động cảnh báo rủi ro, nhận diện hành vi vi phạm sẽ kịp thời ngăn chặn hoặc phát hiện sai phạm, góp phần giảm tải khối lượng công việc, nâng cao hiệu quả cho hoạt động TTKT và hiệu quả quản lý của ngành BHXH Việt Nam.

NHIỀU KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG PHƯƠNG THỨC ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA, KIỂM TRA

Một là, giúp công tác thanh tra, kiểm tra (TTKT) được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm; tổ chức rà soát, phân tích dữ liệu ở giai đoạn trước khi làm việc trực tiếp với đối tượng TTKT đã giúp đoàn TTKT đánh giá, khoanh vùng, lựa chọn mẫu cần kiểm tra thực tế; nâng cao khả năng phát hiện, nhận diện dấu hiệu sai sót, vi phạm một cách toàn diện giúp nâng cao chất lượng và kết quả TTKT. Đồng thời qua phân tích dữ liệu cũng có thể phát hiện kẽ hở trong quản lý hoặc các hạn chế trong thực hiện các quy trình nghiệp vụ của cơ quan BHXH.

Hai là, với khả năng rà soát, phân tích dữ liệu lớn, việc ứng dụng CNTT đã giúp các đoàn TTKT kiểm tra được 100% hồ sơ nghiệp vụ (kể cả đối với các doanh nghiệp có hàng ngàn lao động hoặc cơ sở y tế có hàng triệu lượt KCB BHYT), so với phương pháp TTKT truyền thống trước đây chỉ kiểm tra xác suất được một số hồ sơ nhất định do bị giới hạn về thời gian.

Ba là, giúp phát hiện nhiều sai sót, vi phạm mà trước đây rất khó phát hiện hoặc không thể phát hiện bằng phương pháp truyền thống như: dùng thẻ BHYT cùng lúc khám bệnh ngoại trú ở nhiều cơ sở y tế; sử dụng 01 thẻ BHYT thanh toán chi phí KCB với tần suất lớn (có trường hợp thanh toán đến 27 lần/tháng); thanh toán BHYT sau khi người có thẻ đã chết; cơ sở y tế thu trùng của người bệnh BHYT khoản chi phí đã được cơ quan BHXH thanh toán; nhân viên y tế hành nghề trùng thời gian tại nhiều cơ sở KCB.

Bốn là, giúp các Đoàn TTKT tăng năng suất công việc, nâng cao chất lượng, kết quả TTKT nhưng đã rút ngắn thời gian đáng kể, trong đó có rút ngắn thời gian làm việc của Đoàn TTKT và rút ngắn thời gian làm việc trực tiếp tại đơn vị, hạn chế tối thiểu thời gian đối tượng TTKT phải dành để làm việc với Đoàn, đảm bảo nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng được TTKT. 

Từ năm 2020 đến nay, trong bối cảnh dịch bệnh Covid -19 diễn biến hết sức phức tạp, tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động TTKT, BHXH Việt Nam đã thay đổi cách thức tổ chức triển khai các Đoàn TTKT, tiếp tục tăng cường cải tiến phương pháp TTKT, tăng tỷ trọng thời gian tự rà soát, phân tích dữ liệu và cắt giảm tối thiểu thời gian làm việc trực tiếp với đối tượng TTKT là doanh nghiệp, cơ sở KCB.

Kết quả năm 2020 và 2021, ngành BHXH Việt Nam đã chủ trì và phối hợp thực hiện TTKT tại 24.104 đơn vị (thanh tra chuyên ngành (TTCN) 11.739 đơn vị, kiểm tra 8.139 đơn vị sử dụng lao động (SDLĐ), 709 cơ sở KCB BHYT; TTKT liên ngành 3.517 đơn vị) phát hiện gần 77.221 trường hợp sai phạm về đối tượng, mức đóng với số tiền truy thu gần 276 tỷ đồng; các đơn vị khắc phục ngay số tiền 1.523 tỷ đồng trên tổng số 4.508 tỷ đồng nợ BHXH, BHTN, BHYT; yêu cầu thu hồi về quỹ BHXH gần 14,8 tỷ đồng, về quỹ BHTN 3,3 tỷ đồng, về quỹ BHYT 142,2 tỷ đồng.

Việc ứng dụng CNTT và áp dụng linh hoạt cách thức tổ chức tiến hành trong hoạt động TTKT đã giảm thiểu việc thanh tra trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị, không vi phạm quy định về phòng, chống dịch bệnh Covid -19 nhưng vẫn đem lại hiệu quả; kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT. Kết quả cụ thể: năm 2021 do chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, BHXH Việt Nam đã rà soát trên cơ sở dữ liệu Ngành đang quản lý của 05 BHXH tỉnh, thành phố (Thanh Hóa, Hải Phòng, Kiên Giang, Ninh Bình, Nam Định) với 22 đơn vị có dấu hiệu vi phạm về đóng BHXH, BHYT, BTTN. Kết quả khắc phục số nợ của các đơn vị tính đến ngày 31/12/2021 là 28/42 tỉ đồng, đạt gần 70%./.

Phạm Tuấn Đạt

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất