Ngày 13/7/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
88/2024/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.
Nghị định số 88/2024/NĐ-CP
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành khoản 3 Điều 87, Điều 92, Điều 94,
Điều 95, Điều 96, Điều 98, Điều 99, Điều 100, Điều 102, Điều 106, Điều
107, Điều 108, Điều 109 và Điều 111 của Luật Đất đai về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu
hồi hoặc bằng nhà ở khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại khoản 1 Điều
96, khoản 1 Điều 98, khoản 1 Điều 99 của Luật Đất đai.
Nghị định số 88/2024/NĐ-CP quy định việc bồi thường bằng đất có mục
đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở khi Nhà nước thu
hồi đất quy định tại khoản 1 Điều 96, khoản 1 Điều 98, khoản 1 Điều 99
của Luật Đất đai.
Theo quy định giá đất tính tiền sử dụng đất khi bồi thường bằng đất có
mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi cho hộ gia đình, cá nhân,
người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sử dụng đất ở, đang sở hữu
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam là giá đất được xác
định theo bảng giá đất tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư; trường hợp bồi thường bằng cho thuê đất thu tiền thuê
đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê thì giá đất tính tiền thuê
đất là giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định
tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Giá đất tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi bồi thường bằng đất có
mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi cho tổ chức kinh tế có đất ở
thu hồi là giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết
định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Người có đất thu hồi được bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác
với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở mà có chênh lệch giá trị giữa tiền
bồi thường, hỗ trợ về đất với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp
khi được giao đất, thuê đất khác hoặc tiền mua nhà ở thì xử lý như sau:
Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ về đất lớn hơn tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất phải nộp khi được giao đất, thuê đất có mục đích sử dụng khác
với loại đất thu hồi hoặc tiền mua nhà ở thì người có đất thu hồi được
nhận phần chênh lệch;
Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ về đất nhỏ hơn tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất phải nộp khi được giao đất, thuê đất có mục đích sử dụng khác
với loại đất thu hồi hoặc tiền mua nhà ở thì người có đất thu hồi phải
nộp phần chênh lệch.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ quỹ đất, quỹ nhà và tình hình thực tế
tại địa phương quy định tỷ lệ quy đổi, điều kiện bồi thường bằng đất có
mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở để bồi thường
cho người có đất thu hồi quy định.
Các trường hợp khác được bồi thường về đất và điều kiện được bồi thường về đất quy định tại khoản 3 Điều 95 của Luật Đất đai.
Các trường hợp khác được bồi thường về đất và điều kiện được bồi
thường về đất quy định tại khoản 3 Điều 95 của Luật Đất đai gồm:
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử
dụng đất mà đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu tài sản gắn liền với đất (sau đây gọi là Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất) theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 138 của
Luật Đất đai.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có vi phạm pháp luật về đất đai
trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà đã sử dụng đất ổn định, thuộc các
trường hợp được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định tại khoản 1, điểm a và điểm c khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 139
của Luật Đất đai.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được giao không đúng thẩm quyền
theo quy định của pháp luật về đất đai tại thời điểm được giao hoặc sử
dụng đất do mua, nhận thanh lý, hóa giá, phân phối nhà ở, công trình xây
dựng gắn liền với đất không đúng quy định của pháp luật nhưng đã sử
dụng đất ổn định trước ngày 01 tháng 7 năm 2014.
Đối với trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền từ ngày 01 tháng 7
năm 2014 đến trước ngày Luật Đất đai có hiệu lực thi hành có giấy tờ
chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có giấy
tờ về quyền sử dụng đất mà loại đất xác định trên giấy tờ đã cấp khác
với phân loại đất theo quy định tại Điều 9 của Luật Đất đai hoặc khác
với hiện trạng sử dụng đất thì bồi thường theo loại đất sau khi được xác
định lại theo quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật Đất đai.
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đang sử dụng đất
nông nghiệp mà đất đó đã sử dụng ổn định trước ngày 01 tháng 7 năm 2004
nhưng không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp
diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền
sử dụng đất.
Nghị định cũng quy định việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
đối với trường hợp diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên
giấy tờ về quyền sử dụng đất.
Theo quy định, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu
hồi đất mà diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp (sau đây gọi chung là Giấy
chứng nhận) hoặc giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai thì bồi
thường về đất như sau:
Nếu diện tích đo đạc thực tế nhỏ hơn diện tích ghi trên Giấy chứng nhận
hoặc giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai thì bồi thường về
đất theo diện tích đo đạc thực tế theo quy định tại khoản 6 Điều 135 của
Luật Đất đai.
Trường hợp đã hoàn thành việc đo đạc thực tế phục vụ cho việc thu hồi
đất mà sau đó do thiên tai, sạt lở, sụt lún dẫn đến tại thời điểm lập
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư diện tích của thửa đất đã đo
đạc bị thay đổi thì sử dụng số liệu đã đo đạc để lập phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư.
Trường hợp có sự chênh lệch diện tích đất mà số liệu đo đạc thực tế lớn
hơn số liệu ghi trên Giấy chứng nhận hoặc giấy tờ quy định tại Điều 137
của Luật Đất đai, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền
kề thì diện tích bồi thường được xác định theo số liệu đo đạc thực tế
theo quy định tại khoản 6 Điều 135 của Luật Đất đai.
Trường hợp Giấy chứng nhận hoặc giấy tờ quy định tại Điều 137 của
Luật Đất đai mà vị trí, tọa độ không chính xác thì xem xét bồi thường
theo đúng vị trí, tọa độ khi đo đạc thực tế./.
TTXVN