Quan điểm này của Đảng đã được cụ thể hóa
thành các quy định của hiến pháp và pháp luật, đồng thời được triển
khai một các thực sự trên thực tế, góp phần đảm bảo và thúc đẩy quyền
con người, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nguồn lực tinh
thần và vật chất thúc đẩy xã hội phát triển.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong phiên họp đầu
tiên của Hội đồng Chính phủ (9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh chính sách "tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết". Tư tưởng
đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục thực
hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt, chính sách tôn
trọng và bảo vệ quyền tự do thờ cúng và thực hành tín ngưỡng, tôn giáo
đã được thể hiện xuyên suốt trong tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam qua
các thời kỳ.
Năm 1946, trong bản Hiến pháp đầu tiên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã khẳng định: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”; hay: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”.
Đến bản Hiến pháp năm 1959, quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được tái khẳng định và mở rộng hơn, công
dân không chỉ có quyền “theo tôn giáo” mà còn có quyền “không theo một
tôn giáo nào”. “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do
tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” (Điều 26).
|
Các vị chức sắc Phật giáo và Phật tử dự Đại lễ Phật đản tại Đà Nẵng. (Nguồn: daidoanket.vn).
|
Kế
thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980 ngoài việc ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, còn quy
định nội dung phòng ngừa việc lợi dụng tôn giáo để làm những điều trái
pháp luật, chống phá cách mạng…. “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào; không ai được lợi dụng tôn giáo
để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” (Điều 68).
Bước vào thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi nhanh chóng của tình
hình và yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của người dân vẫn tiếp tục được khẳng định. Điều 70, Hiến pháp
năm 1992 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo
hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Ngày 28-11-2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013, hiến định một
cách toàn diện hơn các quyền chính trị, dân sự của người dân; trong đó
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện khá toàn diện và đầy đủ,
đảm bảo dân chủ, tôn trọng và tạo điều kiện tốt nhất cho mọi người được
thực hành tín ngưỡng và tôn giáo của mình. Điều 24 Hiến pháp 2013 nêu
rõ: "Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn
trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm
tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi
phạm pháp luật”.
Nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và thể chế hóa chủ trương,
chính sách của Nhà nước về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, phù hợp với với các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam đã tham gia, hệ thống các văn bản pháp luật, pháp
lệnh, chỉ thị về tôn giáo đã được chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Các
bộ luật như: Luật Dân sự, Luật Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai, Luật Giáo
dục... đều có các điều khoản quy định nguyên tắc không phân biệt đối xử
vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 164 Bộ luật Hình sự (sửa
đổi) quy định về tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân và người vi phạm có thể bị phạt tù từ 3 tháng đến một năm.
Đặc biệt, ngày 18-11-2016, Quốc hội đã thông qua Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó quy định rõ: Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Mỗi người có
quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín
ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo
luật tôn giáo.
Thực tiễn sinh động trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và các loại hình tín ngưỡng khác
nhau, nhiều tôn giáo lớn du nhập từ hàng nghìn năm trước như Phật giáo,
Công giáo, Tin lành, Hồi giáo… và những tôn giáo hình thành trong nước
như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân, Hiếu Nghĩa… Những quan điểm, chủ
trương, chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo không
chỉ được khẳng định ở hiến pháp và pháp luật hay trong các Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng mà còn thể hiện cụ thể trong thực tiễn đời sống xã
hội.
Theo ước tính có khoảng 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng,
tôn giáo; trong đó có trên 24 triệu tín đồ của các tôn giáo khác nhau
(chiếm khoảng 27% dân số), thuộc 38 tổ chức tôn giáo. Cả nước có gần
53.000 chức sắc, 133.700 chức việc tôn giáo và khoảng 27.900 cơ sở
thờ tự. Các ngày lễ tôn giáo lớn như Lễ Giáng sinh của đạo Công giáo, Lễ
Phật đản của Phật giáo… đều được tổ chức trọng thể theo các nghi lễ tôn
giáo. Hằng năm có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc
gia và địa phương được tổ chức.
Các tổ chức tôn giáo đã đăng ký được pháp luật bảo hộ, được tự do
hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách, sửa
chữa và xây dựng cơ sở thờ tự theo quy định của pháp luật. Đến nay, trên
cả nước, Phật giáo có khoảng 17.000 ngôi chùa, tịnh xá, tịnh thất, niệm
Phật đường; Công giáo có 7.445 cơ sở thờ tự; Tin lành có gần 500 nhà
thờ, nhà nguyện; Cao Đài có 1.281 thánh thất; Phật giáo Hòa Hảo có 43
ngôi chùa được công nhận; Hồi giáo có 89 thánh đường… Hiện Phật giáo có
bốn học viện Phật giáo, một trường Cao đẳng Phật học và 32 trường
Trung cấp Phật học; Giáo hội Công giáo có một Học viện Công giáo, bảy
Đại chủng viện và một cơ sở II Đại chủng viện Thánh Giuse tại Hà Nội;
Tin lành có một Viện Thánh kinh thần học và một trường Thánh
kinh thần học.
Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã xuất bản báo, tạp chí, bản tin. Theo
thống kê từ năm 2006 đến nay, Nhà Xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản
8.683 xuất bản phẩm, trong đó có 4.725 đầu sách với 14.535.464 bản in.
Trung bình mỗi năm có hàng nghìn ấn phẩm liên quan đến tôn giáo
được cấp phép xuất bản, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như Anh, Pháp và
tiếng dân tộc Khơ-me, Ê-đê, Gia-rai, Ba-na….
Với quan điểm “các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau phát triển”, những năm qua, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do và bình đẳng về tín ngưỡng, tôn giáo của các dân
tộc thiểu số. Bên cạnh việc tạo điều kiện cho người dân tộc Chăm theo
Hồi giáo và đạo Bà-la-môn thành lập các Ban đại diện cộng đồng để hỗ trợ
các sinh hoạt tôn giáo. Nhà nước hỗ trợ in ấn Kinh thánh song ngữ
tiếng Việt và các tiếng của dân tộc thiểu số; đã xuất bản trên
30.000 cuốn Kinh thánh bằng tiếng Ba-na, Êđê, Gia-rai; cho phép in
và nhập kinh sách Phật giáo Nam Tông Khơ-me; chuẩn bị xuất bản
Kinh Coran song ngữ Việt Nam – Ả rập...
Hoạt động quốc tế của các tôn giáo tại Việt Nam cũng ngày càng được
mở rộng. Tòa thánh Va-ti-căng đã bổ nhiệm Đặc phái viên không thường trú
tại Việt Nam. Hàng năm có hàng trăm lượt chức sắc tôn giáo Việt Nam
tham dự các hoạt động tôn giáo ở nước ngoài và hàng ngàn lượt cá nhân
tôn giáo nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam giảng đạo và tham gia các
hoạt động, sự kiện tôn giáo. Trong đó, có nhiều sự kiện quan trọng do
Việt Nam đăng cai tổ chức thành công, được dư luận trong nước, quốc tế
và tín đồ nhiều nước đánh giá cao như: Đại lễ Phật đản (VESAK) Liên hợp
quốc được tổ chức tại Hà Nội năm 2008 thu hút 1.500 đại biểu đến từ 74
quốc gia và vùng lãnh thổ và tại Ninh Bình năm 2014 với sự tham dự của
hơn 1.000 chức sắc, tín đồ đến từ 95 quốc gia và vùng lãnh thổ; Hội nghị
Ni giới thế giới năm 2009; Năm Thánh 2011 của Giáo hội Công giáo; Kỷ
niệm 100 năm đạo Tin Lành; Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á Châu năm
2012…/.
VĂN DUYÊN - qdnd.vn