Chủ Nhật, 24/11/2024
Thời sự - Chính trị
Thứ Sáu, 1/11/2019 14:0'(GMT+7)

Tạo động lực vươn lên cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số

Thừa ủy quyền của Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)

Thừa ủy quyền của Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, sáng 1/11, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, Quốc hội thảo luận tại hội trường về Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn.

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đặc biệt, ưu tiên đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, tuy nhiên hiện nay vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn là vùng khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, kinh tế-xã hội phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.

Qua nghiên cứu hồ sơ và cho ý kiến về Đề án, các đại biểu thống nhất cho rằng, việc xem xét quyết định Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là rất cần thiết, cấp bách, có ý nghĩa chính trị quan trọng.

CHÚ TRỌNG TÁC ĐỘNG NHẰM KÍCH THÍCH NỘI ĐỊA

Cho ý kiến tại phiên họp, đại biểu Cao Thị Giang (Quảng Bình) khẳng định, để thúc đẩy phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, việc xây dựng Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là việc làm cần thiết.

Về cơ bản, đại biểu Cao Thị Giang nhất trí với nội dung mà Ban soạn thảo đã đưa ra trong dự thảo đề án.

Tuy nhiên, về mục tiêu quan điểm của Đề án: Thống nhất “không để ai bị bỏ lại phía sau,” đại biểu cho rằng, cần chú trọng tác động để kích thích nội lực của người dân vùng dân tộc thiểu số, “tránh việc làm hộ, làm thay.”

Để đạt được mục đích, hiệu quả trên, theo đại biểu, điều quan trọng, thiết yếu là chủ trương, chính sách trong ban hành nghị quyết cần đề cập chú trọng, quan tâm vấn đề đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt và cơ sở hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là giao thông; có các dự án đầu tư nhằm tạo cơ hội phát triển, các phương án phát triển sản xuất; chú trọng đến việc hưởng lợi chung.

“Khi điều kiện sống của đồng bào đã được đáp ứng một cách cơ bản thì các giải pháp phát triển kinh tế- xã hội cần chú trọng sâu vào nhóm hỗ trợ sinh kế và giáo dục; đồng thời tập trung nguồn lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tránh nguồn lực bị phân tán như trong thời gian qua,” đại biểu Cao Thị Giang nhấn mạnh.

Ngoài ra, Chính phủ cần quan tâm đến việc đầu tư nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để mở rộng cho vay vốn phục vụ sản xuất của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Các cấp quản lý cần ban hành chủ trương, chính sách truyền thông, bồi dưỡng, tập huấn cho người dân có đầy đủ kinh nghiệm, kỹ năng phát triển các dự án về kinh tế, chú trọng việc phổ cập về công nghệ thông tin cho người dân tộc thiểu số để họ nhanh chóng tiếp cận, kết nối các cơ hội việc làm và bán hàng đến các thị trường trong nước và quốc tế.

"Những yếu tố trên là cơ hội để đồng bào dân tộc thiểu số có cơ sở vững chắc, bền vững trong phát huy tiềm năng, lợi thế vươn lên tự chủ trong phát triển kinh tế- xã hội,” đại biểu khẳng định.

Cùng với đó, đại biểu Cao Thị Giang cho rằng, cần tập trung phân loại đối tượng tài trợ đối với hộ nghèo nhưng không có khả năng lao động để có chính sách giúp đỡ, tài trợ.

Đối với đối tượng có sức lao động sản xuất thì tạo cơ chế để họ có tiềm năng, lợi thế vươn lên xóa đói giảm nghèo; khắc phục tình trạng tài trợ trước mắt nhưng thiếu bền vững, không những không có hiệu quả mà còn có tác dụng ngược lại, làm nảy sinh tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thiếu đổi mới tư duy, sáng tạo của một bộ phận người dân trong đồng bào dân tộc thiểu số.

Bên cạnh các chiến lược phát triển kinh tế, đại biểu Cao Thị Giang đề xuất cần có những giải pháp bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc bền vững, bởi khi văn hóa dân tộc được bảo tồn sẽ góp phần thúc đẩy giá trị văn hóa chung phát triển nhanh chóng, tạo ra những giá trị mới tốt đẹp trong cộng đồng người dân tộc và xóa bỏ các hủ tục lạc hậu.

Trước yêu cầu thực tế này, Chính phủ và các cơ quan chức năng cần nghiên cứu soạn thảo các chương trình học cho người dân tộc thiểu số và đưa môn học tiếng dân tộc thành một trong những môn học bắt buộc của học sinh dân tộc thiểu số.

Theo đại biểu Cao Thị Giang, điều này xuất phát từ thực tế nhiều học sinh dân tộc thiểu số có khả năng thường được đi học theo chế độ cử tuyển.

“Các em tách khỏi môi trường của dân tộc mình, có nguy cơ mai một về tiếng nói và chữ viết. Nếu cứ tiếp tục như vậy, các em sẽ không thể phát huy được những giá trị văn hóa, vật chất của dân tộc mình để làm giàu cho chính quê hương. Các giá trị tốt đẹp của đồng bào cũng sẽ dần mất đi,” đại biểu nhận định.

Vấn đề bình đẳng giới cho phụ nữ và trẻ em gái vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cần được quan tâm đúng mức hơn nữa, bởi “đây là vấn đề nóng trong suốt những năm qua.”

Thực tế cho thấy, tỷ lệ lao động nữ của 53 dân tộc thiểu số không biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 26,82%, cao gấp đôi so với tỷ lệ này của lao động nam dân tộc thiểu số và cao gấp 5 lần so với lao động nữ là người Kinh.

Bên cạnh đó, quá trình chuyển dịch cơ cấu việc làm của lao động nữ dân tộc thiểu số chậm và gặp nhiều khó khăn: Rào cản từ phong tục tập quán, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật hạn chế; rào cản ngôn ngữ và khả năng tiếp cận, thụ hưởng từ các chính sách, nguồn lực hỗ trợ phát triển sản xuất, chuyển đổi sinh kế, cải thiện việc làm...

Do đó, để có các giải pháp về bình đẳng giới cho phụ nữ và trẻ em gái vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đại biểu Cao Thị Giang nhấn mạnh, cần tiếp tục có chính sách hỗ trợ cho cô đỡ thôn bản, chính sách cho phụ nữ dân tộc thiểu số được khám thai theo định kỳ và sinh đẻ tại các cơ sở y tế, chính sách phát triển chi hội phụ nữ thôn bản dân tộc thiểu số, chính sách cử tuyển và tuyển dụng phụ nữ dân tộc thiểu số vào làm việc tại các cơ quan chính quyền địa phương sau khi tốt nghiệp…

Lý giải cho những đề xuất trên, đại biểu làm rõ: “Khi phụ nữ được tham gia vào chính quyền, các tổ chức cộng đồng, họ sẽ được góp ý kiến cho quá trình hoạch định đường lối, chủ trương; từ đó chủ trương, chính sách sẽ được mang yếu tố giới, không bị xa rời cuộc sống.”

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG CẦN ĐẶT TRONG TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Thảo luận tại hội trường, các đại biểu cũng tán thành quan điểm của Chính phủ về việc sau khi Đề án được thông qua, Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và ban hành một chương trình mục tiêu quốc gia để thực hiện Đề án tổng thể.

Về tên gọi của chương trình mục tiêu quốc gia mới, đại biểu Nguyễn Phước Lộc (Thành phố Hồ Chí Minh) đề xuất lấy tên gọi là “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển bền vững phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.”

Theo đại biểu, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đến việc chăm lo, cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nâng cao trình độ phát triển của vùng đặc biệt khó khăn, “nhưng từ năm 1993, khi bắt đầu khởi động chương trình xóa đói giảm nghèo đến nay, đã đi qua 6 chu trình nhưng chúng ta vẫn tiếp cận từ góc nhìn giảm nghèo.”

Do đó, đại biểu cho rằng, từ chỗ đặt vấn đề về Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đến Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi là sự thay đổi lớn về nhận thức.

Việc cần có cách tiếp cận mới từ quan điểm phát triển là phù hợp với tuyên bố về chính sách dân tộc với nội hàm được ghi nhận tại Khoản 4, Điều 5 Hiến pháp 2013, đó là: Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.

Không gian nghèo của Việt Nam đang liên tục diễn biến, lõi nghèo tập trung vào vùng dân tộc thiểu số, trải rộng ở khu vực miền núi phía Bắc, miền Tây Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Tây duyên hải miền Trung và Tây Nam Bộ.

So với sự phát triển chung của cả nước và từng địa phương, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn có nhiều khó khăn: Kinh tế-xã hội phát triển chậm, hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao, cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu và chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, khoảng cách giàu nghèo có xu hướng tăng, tiềm ẩn phức tạp về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Từ thực tế đó, đại biểu Nguyễn Phước Lộc cho rằng, việc giải quyết vấn đề giảm nghèo bền vững của vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải đặt trong tổng thể gắn liền với phát triển kinh tế-xã hội bền vững, với các giải pháp trọng yếu được nghiên cứu cẩn trọng.

Đề xuất một số giải pháp về vấn đề này, đại biểu nhấn mạnh: “Cần phát triển kinh tế lâm nghiệp và các dự án sản xuất tạo sinh kế, tăng thu nhập cho người dân gắn với hỗ trợ đất ở, cải thiện nhà ở, hỗ trợ đất sản xuất, nước sinh hoạt; đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu cấp xã, thôn, bản, đơn vị sự nghiệp công lập liên quan đến lĩnh vực dân tộc, gắn với bảo tồn, phát huy bản sắc các dân tộc thiểu số và phát triển du lịch; nghiên cứu về sự phân hóa chính sách phù hợp với từng nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn; đầu tư đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số gắn với bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em.”

Đại biểu Nguyễn Phước Lộc cũng thống kê, hiện có 118 chính sách liên quan đến dân tộc thiểu số còn hiệu lực, tuy nhiên các chính sách thiếu tính thống nhất, đồng bộ, còn dàn trải, chồng chéo, chậm được tích hợp, lồng ghép và do nhiều bộ, ngành quản lý, phân tán theo từng lĩnh vực.

Theo đại biểu, nếu ban hành chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách sẽ được tập trung vào một đầu mối quản lý và điều phối, “có thể giao cho Ủy ban Dân tộc làm cơ quan thường trực,” đại biểu cho ý kiến.

Khi được ban hành, Chương trình mục tiêu quốc gia sẽ rà soát, sắp xếp, tích hợp các chính sách để sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực trong điều kiện giới hạn, đồng thời tập trung nhiều hơn cho mục tiêu đầu tư phát triển, hướng đến phát triển bền vững, với chu kỳ đầu tư có tầm nhìn dài hạn, qua đó sẽ chú trọng được đầu tư đúng mức, phát huy tiềm năng, lợi thế văn hóa của từng vùng, từng dân tộc, phát huy nội lực của đồng bào và vai trò chủ động, sáng tạo của từng địa phương, từng cộng đồng nghèo để hòa cùng mục tiêu phát triển của đất nước, góp phần thúc đẩy việc kết nối giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi với vùng phát triển.

Các chính sách được ban hành chủ yếu từ hỗ trợ sẽ chuyển sang tạo động lực vươn lên tự lập trong cuộc sống của người dân tộc thiểu số.

Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn là Đề án có tầm nhìn dài hạn 10 năm, tiến đến 2030-năm Việt Nam cần đảm bảo các mục tiêu phát triển bền vững theo cam kết với Liên hợp quốc.

Vì vậy, theo đại biểu Nguyễn Phước Lộc, các mục tiêu của Đề án được xác lập tại kỳ họp này cần đảm bảo khả thi để được triển khai thực hiện bền bỉ, kiên trì, thống nhất qua hai nhiệm kỳ, hàm chứa mục tiêu tầm nhìn, đồng thời thể hiện quyết tâm của cả hệ thống chính trị./.

Theo TTXVN

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất