Ngày 28/10, các đại biểu Quốc hội làm việc tại Hội trường nghe Tờ trình về dự
án Luật ban hành văn bản pháp luật và thảo luận một số nội dung còn ý
kiến khác nhau của dự thảo Luật hộ tịch.
Hoàn thiện và vận hành hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch
Tờ trình dự án Luật ban hành văn bản pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Hà Hùng Cường trình bày nêu rõ việc xây dựng dự án luật nhằm tạo khuôn
khổ pháp lý thống nhất cho việc ban hành văn bản pháp luật của các cơ
quan nhà nước từ Trung ương tới địa phương với nhiều đổi mới về nội dung
nhằm góp phần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và vận hành hệ thống pháp
luật đồng bộ, minh bạch, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả.
Luật mới quy định về xây dựng, ban hành văn bản pháp luật và tổ chức thi
hành văn bản pháp luật thống nhất từ Trung ương tới địa phương; không
quy định việc làm, sửa đổi Hiến pháp; không quy định việc ban hành văn
bản có chứa quy tắc xử sự, nhưng chỉ áp dụng trong nội bộ, cơ quan, đơn
vị.
Việc ban hành quyết định hành chính của các cơ quan Nhà nước ở Trung
ương và chính quyền địa phương tuân theo Luật ban hành văn bản hành
chính đang được xây dựng và trình Quốc hội năm 2015.
Việc ban hành quyết định, bản án của Tòa án nhân dân tuân theo các luật, bộ luật tố tụng (hình sự, dân sự, hành chính).
Dự thảo Luật gồm 16 chương, 159 điều (tăng 4 chương, 64 điều so với Luật
năm 2007, ít hơn 2 chương, tăng 8 điều so với tổng số chương, điều của
cả hai Luật về ban hành văn bản pháp luật hiện hành).
Ủy ban Pháp luật là cơ quan thẩm tra dự án Luật cơ bản nhất trí với Tờ
trình của Chính phủ về sự cần thiết xây dựng, ban hành Luật Ban hành văn
bản pháp luật trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và hợp nhất Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004.
Ủy ban Pháp luật tán thành với nhiều nội dung của dự thảo Luật. Tuy
nhiên, một số ý kiến cho rằng, để đề xuất các quy định mới trong dự thảo
Luật có tính khả thi cao thì việc đánh giá các hạn chế, bất cập của các
quy định hiện hành, đặc biệt là phân tích nguyên nhân của các hạn chế,
bất cập cần được cụ thể, sâu sắc hơn. Trong đó, cần phân biệt giữa hạn
chế của các quy định pháp luật hiện hành và hạn chế do việc tổ chức thực
hiện, để từ đó đưa ra các kiến nghị trong dự thảo Luật chính xác hơn,
phù hợp và khả thi hơn.
Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, thì dự kiến Chính
phủ chuẩn bị dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để trình
Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2014), nhưng nay Chính
phủ đổi tên thành Luật Ban hành văn bản pháp luật để phù hợp với các quy
định của Hiến pháp.
Vấn đề này, Ủy ban Pháp luật nhận thấy, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã quy định về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước
trong việc ban hành văn bản pháp luật và các văn bản pháp luật phải phù
hợp với Hiến pháp. Vì vậy, việc đổi tên Luật thành Luật Ban hành văn bản
pháp luật là cần thiết để bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp.
Về phạm vi điều chỉnh của Dự án Luật vẫn còn ý kiến khác nhau. Nhiều ý
kiến tán thành với đề nghị của Chính phủ và cho rằng, dự thảo Luật chỉ
nên quy định về ban hành các văn bản pháp luật có chứa quy tắc xử sự
chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với mọi cá
nhân, tổ chức.
Đối với các loại văn bản pháp luật khác, như việc ban hành bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân tối cao được thực hiện theo luật; các văn bản
pháp luật là quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sẽ được điều chỉnh cụ thể trong Luật Ban hành quyết định hành
chính đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015.
Một số ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh của Dự án Luật cho phù
hợp với tên gọi, bao gồm cả việc ban hành văn bản pháp luật chung và văn
bản pháp luật là các quyết định hành chính, trừ văn bản pháp luật trong
lĩnh vực tố tụng. Theo đó, nên sáp nhập nội dung điều chỉnh trong dự án
Luật Ban hành quyết định hành chính vào dự án Luật này với tên gọi
chung là “Luật Ban hành văn bản pháp luật.”
Các ý kiến này cho rằng, quy định như vậy bảo đảm sự thống nhất điều
chỉnh các văn bản pháp luật (cả văn bản pháp luật chung và văn bản pháp
luật cá biệt) trong một đạo luật. Tuy nhiên, hạn chế của phương án này
là do trình tự, thủ tục ban hành văn bản và cơ chế tổ chức thực hiện của
mỗi loại văn bản pháp luật là khác nhau, nên rất khó cho việc quy định
chung trong một đạo luật.
Mặt khác, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Dự án Luật này đòi hỏi
phải có thời gian nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, nên có thể ảnh hưởng
đến tiến độ trình, thông qua Dự án Luật.
Ủy ban Pháp luật cho rằng, để bảo đảm tính khả thi trong tình hình hiện
nay, dự án Luật này chỉ nên điều chỉnh đối với việc ban hành văn bản
pháp luật như loại ý kiến thứ nhất; đối với các văn bản pháp luật là
quyết định hành chính thì sẽ điều chỉnh trong dự án Luật ban hành quyết
định hành chính.
Đề nghị tiếp tục cấp Giấy khai sinh cho trẻ em khi đăng ký khai sinh
Thời gian còn lại của phiên làm việc sáng nay, các đại biểu Quốc hội đã
thảo luận về các nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Hộ tịch.
Thảo luận về việc cấp Giấy khai sinh và Thẻ căn cước công dân, đa số ý
kiến đại biểu Quốc hội tán thành với đề nghị của Chính phủ tiếp tục cấp
Giấy khai sinh cho trẻ em khi đăng ký khai sinh như quy định hiện hành,
bởi vì đây là nhu cầu và là quyền của người dân được sử dụng thuận lợi
từ nhiều năm nay để bảo vệ lợi ích của mình.
Các ý kiến cho rằng đăng ký khai sinh là việc Nhà nước chính thức thừa
nhận việc một cá nhân ra đời và bắt đầu được hưởng quyền con người,
quyền công dân. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì trẻ em sinh ra
được Nhà nước cấp Giấy khai sinh trong đó có ghi những thông tin cơ bản
của trẻ em, Giấy khai sinh có giá trị pháp lý làm căn cứ cho việc cấp
các loại giấy tờ khác trong quản lý nhà nước có giá trị sử dụng trong
nước và ở nước ngoài, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hơn nữa, việc cấp Giấy khai sinh đã và đang được thực hiện thống nhất, ổn định từ nhiều năm nay, cơ bản không có vướng mắc.
Đại biểu Hồ Thị Thủy (Vĩnh Phúc) cho rằng việc tiếp tục cấp giấy khai
sinh cho trẻ em là cần thiết, phù hợp với công ước quốc tế về quyền trẻ
em, phù hợp với Bộ luật Dân sự và Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em.
Hơn nữa, theo đại biểu giấy khai sinh là văn bản pháp lý đầu tiên nhà
nước cấp cho công dân, là căn cứ cho việc cấp các loại giấy tờ khác sau
này của quản lý nhà nước, bao gồm cả việc cấp thẻ căn cước công dân cho
trẻ dưới 14 tuổi như quy định của dự thảo Luật Căn cước công dân.
Đại biểu Huỳnh Văn Tính (Tiền Giang) phân tích quyền được khai sinh là
quyền dân sự của cá nhân được nhà nước tôn trọng, bảo vệ theo Hiến pháp.
Trẻ em có quyền được đăng ký khai sinh là quy định được nội luật hóa
theo các công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam tham gia ký kết.
Đại biểu nêu theo quy định của luật hiện hành và dự thảo luật Chính phủ
trình Quốc hội, khi đăng ký khai sinh, trẻ em được cấp giấy khai sinh,
thủ tục đăng ký khai sinh và cấp giấy khai sinh cho trẻ em có quốc tịch
Việt Nam do ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện.
Trong khi đó, theo quy định của dự thảo Luật Căn cước công dân, sau khi
đăng ký khai sinh, ủy ban nhân dân cấp xã chuyển thông tin cho cơ quan
nhà nước.
Dự thảo Luật Căn cước công dân cũng chưa nêu rõ chuyển thông tin cho cơ
quan nào. Hơn nữa giấy khai sinh có giá trị suốt đời, không có hạn sử
dụng và phải đổi như thẻ căn cước công dân theo điểm a, khoản 2, Điều 40
dự thảo Luật Căn cước công dân. Như vậy, việc cấp thẻ căn cước công dân
cho trẻ dưới 14 tuổi gây tốn kém hơn cho cả nhà nước và người dân vì
giá thành làm thẻ tốn kém hơn làm giấy khai sinh, đại biểu Tính nhấn
mạnh.
Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban thường vụ Quốc hội
cũng thể hiện sự tán thành với đề nghị của Chính phủ tiếp tục cấp Giấy
khai sinh cho trẻ em khi đăng ký khai sinh.
Nội dung này được thể hiện tại Điều 16 và Điều 36 của dự thảo Luật; đồng
thời đề nghị Chính phủ có giải pháp khắc phục tình trạng gây phiền hà
cho người dân trong việc yêu cầu nộp hoặc xuất trình Giấy khai sinh khi
thực hiện một số thủ tục hành chính.
Về thẩm quyền đăng ký hộ tịch, một số ý kiến tán thành với đề nghị quy
định ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền đăng ký đối với một số việc hộ
tịch có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới đất liền để tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân (khoản 1 Điều 5); còn các việc hộ tịch có yếu
tố nước ngoài khác thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân cấp huyện (khoản
2 Điều 5).
Đại biểu Hồ Thị Thủy đánh giá việc quy định và phân cấp về thẩm quyền
như dự thảo luật sẽ phát huy tối đa năng lực trách nhiệm, tính năng
động, sáng tạo của chính quyền địa phương, tạo hành lang pháp lý bảo đảm
tăng cường thống nhất vai trò quản lý nhà nước của cơ quan Trung ương
và của ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Việc phân cấp này sẽ giúp ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ động về thời
gian, tập trung nhân lực để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước
trong lĩnh vực hộ tịch tại địa phương, nhất là công tác thanh tra, kiểm
tra với việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới.
Tuy nhiên, theo đại biểu việc chuyển giao thẩm quyền cho ủy ban nhân dân
cấp huyện theo thực hiện đăng ký hộ tịch trong các trường hợp có yếu tố
nước ngoài như khoản 2, điều 5, cần nghĩ đến việc thực hiện theo lộ
trình, theo vùng miền.
Để quy định của luật có tính khả thi cao, Chính phủ cần có phương án,
giải pháp phù hợp về con người cũng như cơ sở vật chất, vì hiện năng
lực, trình độ chuyên môn về công tác hộ tịch có yếu tố nước ngoài của
đội ngũ cán bộ tư pháp ở đa số cấp huyện còn hạn chế, nhất là ở vùng
sâu, vùng núi, vùng xa.
Việc thành lập đội ngũ cộng tác viên dịch thuật cấp huyện còn khó khăn.
Tại phiên thảo luận, các đại biểu Quốc hội cũng đã cho ý kiến cụ thể về
các nội dung: Phạm vi điều chỉnh của dự án Luật Hộ tịch; lệ phí hộ tịch;
thủ tục, thời hạn đăng ký hộ tịch; công chức tư pháp-hộ tịch./.
Quỳnh Hoa (TTXVN)