Sáng 13/5, đại diện các DN thủy sản đã có cuộc đối thoại trực tiếp với
các bộ, ngành về những vướng mắc liên quan đến quản lý của các Bộ: Y tế,
Tài chính, Tài nguyên và Môi trường về tiêu chuẩn nước thải; quy định
an toàn thực phẩm; phí, lệ phí trong lĩnh vực nông nghiệp. Phó Thủ tướng
Chính phủ Vũ Đức Đam đến dự.
Cuộc đối thoại được tổ chức tại Cổng Thông tin điện tử Chính phủ với sự
tham gia của lãnh đạo các bộ, ngành để giải quyết ngay các kiến nghị của
doanh nghiệp.
Theo Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (VPCP) Nguyễn Văn Tùng, thực
hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, VPCP tổ chức buổi đối
thoại giữa các Bộ: Y tế, TN&MT, Tài chính về các kiến nghị của Hiệp
hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) liên quan tới Nghị định 38 của Chính phủ.
Tham dự buổi đối thoại có lãnh đạo các Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Công Thương, Tư pháp, VASEP và một số cơ quan khác.
Mở đầu cuộc đối thoại, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho
biết: Đây là lần thứ hai buổi làm việc tương tự được tổ chức (lần đầu
tiên đã làm ở trụ sở VPCP). Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần nhắc tới
yêu cầu xây dựng Chính phủ hành động, kiến tạo, đã ra nhiều văn bản, chỉ
thị, đều nói rất rõ phải cải thiện môi trường kinh doanh và thực hiện
các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Trong thực tế, ngoài các
hội nghị, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Tổ công tác, các Phó Thủ tướng
tới các bộ, ngành, địa phương để có nhiều phương thức làm việc nhằm cải
thiện môi trường kinh doanh.
Thực tế cho thấy khi kiểm tra, chúng ta kê được đầu việc ra, cái nào
làm được, cái nào chưa. Là người theo dõi trực tiếp, khi xem xét một số
vấn đề, tôi thấy có rất nhiều vấn đề các bộ báo cáo đã hoàn thành, nhưng
thực chất mới có văn bản trả lời hoặc có văn bản theo đúng thời hạn
nhưng nội dung thì rất nhiều vấn đề doanh nghiệp vẫn không thông, vẫn
tiếp tục kiến nghị.
Do đó, buổi làm việc này cũng là một hình thức tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp, đồng thời kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết 19 với các bộ
ngành. Tinh thần là đi từng vấn đề một, có rất nhiều việc các bộ đã làm
nhiều lần nhưng vẫn không thông. Nếu kê số cuộc họp, số văn bản thì
thấy làm nhiều, nhưng doanh nghiệp, xã hội cần vấn đề được tháo gỡ thế
nào chứ không chỉ cần văn bản.
Qua lần đầu làm việc ở VPCP thì thấy DN rất xây dựng, các bộ cũng rất
muốn tháo gỡ nhưng không có dịp nói với nhau. Tôi muốn làm thành nếp
tại Cổng Thông tin điện tử Chính phủ vì Chính phủ đã giao cho Cổng Thông
tin điện tử Chính phủ mở Diễn đàn tiếp nhận ý kiến phản biện chính
sách.
Tôi mong dần dần hoạt động này trở thành nơi các bộ tới để trao đổi với
doanh nghiệp. Tinh thần là tất cả vì công việc chung, không có gì giấu
giếm, tất cả mọi công việc điều hành của Chính phủ đều công khai, minh
bạch với nhân dân, với công luận. Trước hết tôi biểu dương, đánh giá rất
cao các bộ, thời gian gấp, nhiều việc, nhưng các bộ có vấn đề cần trao
đổi đều có đại diện đủ thẩm quyền giải quyết, chứ không phải nghe rồi về
báo cáo lãnh đạo. Tôi thấy như vậy rất tốt, sắp tới sẽ tổ chức Hội nghị
với DN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng rất quan tâm vấn
đề này.
Buổi làm việc chọn lĩnh vực thủy sản vì tăng trưởng GDP quý I tăng
thấp nhất trong nhiều năm, Thủ tướng Chính phủ đã giao chỉ tiêu cụ thể
cho các ngành. Một trong những điều quan trọng nhất là làm sao có thị
trường. Chúng ta sẽ giải quyết từng việc một, việc này thì ý kiến Hiệp
hội thế nào, các bộ nói thế nào, nếu thống nhất thì bao giờ sửa?
|
Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Các kiến nghị liên quan tới lĩnh vực y tế
Phó Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Văn Tùng: Hiệp hội
Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) có 3 kiến nghị chủ yếu
liên quan đến các quy định về công bố hợp quy và chuẩn ATTP.
Theo đó, VASEP kiến nghị bỏ toàn bộ quy định của Nghị định 38 về công
bố phù hợp về ATTP với lý do Luật ATTP không quy định, đang gây khó
khăn cho DN khi mất thời gian tới 15 ngày, không phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Thứ hai là đơn giản hóa thủ tục hành chính, tiếp nhận văn bản công bố
hợp quy về ATTP, giảm thời gian tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ, cấp giấy
chứng nhận hợp quy về ATTP.
Kiến nghị thứ ba liên quan đến phân công trách nhiệm của Bộ Y tế, Bộ
NN&PTNT, Bộ Công Thương trong việc tiếp nhận bản công bố hợp quy
thuộc lĩnh vực, nhóm mặt hàng thực phẩm thuộc phạm vi quản lý để đảm bảo
nguyên tắc 1 cửa, 1 DN chịu sự quản lý của một bộ.
Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường: Kiến nghị thứ nhất của
VASEP là đề nghị bỏ toàn bộ quy định về công bố phù hợp theo Nghị định
38, căn cứ Luật ATTP thì kiến nghị này hợp lý. Luật chỉ yêu cầu công bố
quy chuẩn.
Bộ Y tế có một loạt thông tư, trong đó có mức giới hạn, ví dụ như
danh mục thuốc thú y dùng trong thực phẩm (67 loại), thuốc bảo vệ thực
vật, trước đây để ở thông tư. Bộ tiếp thu ý kiến của VASEP và chuyển
sang quy chuẩn, đúng Luật ATTP mà vẫn tiếp thu ý kiến của VASEP.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Yêu cầu Thứ trưởng Trương Quốc Cường phải công bố cụ thể bằng cách nào, văn bản nào, khi nào xong công việc nói trên.
Thứ trưởng Trương Quốc Cường: Ban soạn thảo sẽ tiếp thu giải trình thông qua thủ tục khoảng 2 tháng.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Nếu Bộ chắc chắn được thì sau 3 tháng cũng đã là rất tốt.
Thứ trưởng Trương Quốc Cường: Về đề nghị đơn giản
hoá hồ sơ đăng ký tiếp nhận và trả lời công bố kết quả theo Nghị định
38, hiện nay, Bộ Y tế đã và đang áp dụng dịch vụ công trực tuyến cấp độ
4. Bộ Y tế đã triển khai hình thức dịch vụ công trực tuyến từ cuối năm
2014 và tất cả đều đăng ký trên môi trường mạng. Hiện nay, các doanh
nghiệp đánh giá rất cao tác dụng cải cách thủ tục hành chính của nó.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Tôi đọc trong báo cáo thấy
có đề cập: Trong thời gian tới Bộ sẽ áp dụng dịch vụ công trực tuyến
này đến các chi cục, địa phương. Đề nghị anh Cường nói cụ thể hơn!
Thứ trưởng Trương Quốc Cường: Hiện nay ở Bộ đang làm
trực tuyến, còn tại các chi cục, Bộ đã liên hệ để triển khai nhưng liên
quan đến vấn đề công nghệ thông tin, liên quan đến nhiều đơn vị nên ảnh
hưởng đến vấn đề thời gian. Hiện nay, chúng tôi đang thuê công nghệ
thông tin của Viettel. Hà Nội và TPHCM đang được ưu tiên làm tại 2 chi
cục của 2 thành phố, sau đó sẽ triển khai tại các chi cục khác.
|
Đại diện Bộ Công Thương tại buổi đối thoại. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký VASEP: Ý kiến thứ
hai về thủ tục nhận cấp giấy liên quan tới người dân và doanh nghiệp,
nguyên nhân trước hết trong Nghị định 38 quy định trong vòng 15 ngày sẽ
cấp giấy thông báo. Tuy nhiên, thực tế đang xảy ra 2 vấn đề. Thứ nhất,
khi DN nộp và chờ 15 ngày, nhưng cận 15 ngày khi DN lên hỏi thì mới nói
là hồ sơ không đạt, làm lại từ đầu, tính lại từ ngày thứ nhất. Hồ sơ
thủy sản 5 năm qua tăng rất nhiều, các DN làm hàng trăm mặt hàng là bình
thường.
Vấn đề thứ hai, khi xem xét Luật ATTP, bản chất là các DN và người
dân chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của mình, làm bản tự công
bố, gửi cơ quan thẩm quyền. Bộ Y tế chỉ thông báo đã tiếp nhận nhưng
hình thức hiện nay là cấp giấy chứng nhận công bố, cho nên thực thi ở
dưới xảy ra những chuyện như đã báo cáo. Chúng tôi cũng kiến nghị vấn đề
tương tự ở một số ngành khác. Chúng tôi đề nghị trước hết sửa Nghị định
38 xuống còn 3 ngày và quy định làm sao để quá trình thực thi không có
tắc nghẽn. Cố gắng làm rõ về câu chữ, bản chất sự việc, Bộ có thể cần
đánh giá thực tế nữa, chúng tôi đã có văn bản kiến nghị với hồ sơ cụ
thể.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Khi đi khảo sát ở nhiều
nơi, có tình trạng nhận hồ sơ nhưng không xem ngay và gần hết ngày thì
mới thông báo những điểm không hợp lệ tới DN, người dân để làm lại. Vì
vậy, một số ngành đã sửa quy định này như kiểm tra hồ sơ ngay từ đầu,
trao đổi trực tiếp với DN, cá nhân nộp hồ sơ nếu thấy có chi tiết chưa
phù hợp.
Thứ trưởng Trương Quốc Cường: Theo luật quy định,
trong vòng 15 ngày phải công bố, trả lời cho DN về việc tiếp nhận công
bố hợp quy ATTP của DN là hợp lý vì cần phải có thời gian thẩm định,
kiểm tra, đối chiếu, so sánh. Trong khu vực thì Singapore, Malaysia áp
dụng hậu kiểm nên chỉ tiếp nhận bản công bố của DN. Các nước còn lại đều
kết hợp tiền kiểm, hậu kiểm với lý do quy mô sản xuất thực phẩm manh
mún.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Tiền kiểm là kiểm tra trên
hồ sơ hay mẫu? Luật quy định tối đa 15 ngày và nếu mình làm có phân
chia được loại mặt hàng nào có thời gian kiểm tra nhanh hơn, loại nào
lâu hơn hay không? Làm sao để nhận hồ sơ phải kiểm ngay, không để tình
trạng sát đến ngày mới thông báo cho người làm. Câu hỏi thứ hai là bản
chất việc công bố hợp quy ATTP là Nhà nước chịu trách nhiệm hay DN tự
chịu trách nhiệm?
* Thứ trưởng Trương Quốc Cường đề nghị Cục trưởng Cục ATTP Nguyễn Thanh Phong trao đổi thêm.
Cục trưởng Cục ATTP Nguyễn Thanh Phong: Bản chất cơ
quan quản lý không chỉ nhận nộp hồ sơ mà phải căn cứ đối chiếu từng danh
mục chỉ tiêu về phụ gia thực phẩm, hàm lượng kim loại nặng, các chỉ
tiêu kiểm nghiệm có phù hợp hay không. Nếu bản công bố hợp quy do bên
thứ ba đánh giá thì thời gian chỉ tối đa 7 ngày nhưng đa số các DN tự
công bố, đánh giá tức là khai như thế nào thì phải cùng các cơ quan xem
xét lại bản công bố hợp quy.
Đến hôm nay (13/5), hạn trả hồ sơ tính đến 30/5, chúng tôi đã trả hết
cho DN. Bộ Y tế đã nhận và cấp trên môi trường mạng, thực phẩm nhập
khẩu đã kết nối 1 cửa quốc gia nên thời gian thông quan từ 15-21 ngày và
giờ tối đa là 9 ngày. Chúng ta phải căn cứ cân đối quyền lợi của DN và
người tiêu dùng.
Còn Bộ NN&PTNT chỉ trong vòng 2-3 ngày là cấp chứng nhận lô hàng
xuất khẩu và trước đó đã phải có chứng nhận kiểm nghiệm và thậm chí Bộ
NN&PTNT phải đến tận nơi DN sản xuất.
* Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đề nghị Cục trưởng Nguyễn Thanh Phong
thống kê cụ thể tỉ lệ hồ sơ phải trả lại chiếm bao nhiêu phần trăm. Cục
trưởng Phong khẳng định tỉ lệ phải sửa của DN là rất lớn.
* Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Đặng Huy Đông đặt vấn đề xây dựng phần mềm
để hỗ trợ cho việc rà soát chỉ tiêu. Tuy nhiên ông Phong cho biết từng
loại sản phẩm, từng phụ gia, từng chỉ tiêu có quy định khác nhau, mức
giới hạn khác nhau.
|
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng đặt nhiều câu hỏi với các bộ. |
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Tôi muốn hỏi Thứ trưởng Bộ
Công Thương Trần Quốc Khánh về kinh nghiệm quốc tế, xem trong chừng mực
của nước mình thì nên làm như thế nào?
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh: Tôi nghĩ
chúng ta không muốn học kinh nghiệm của quốc tế đâu. Tôi xin lấy ví dụ,
Phó Thủ tướng và mọi người còn nhớ khi có cá nhân người Việt Nam mua lại
1 thị trấn tại Mỹ và bán cà phê tại đó, họ mất 9 tháng để xin giấy phép
bán cà phê. Đưa một mặt hàng vào lưu thông ở các nước phát triển khó
khăn hơn ở Việt Nam rất nhiều. Tôi thấy thủ tục ở Việt Nam rất đơn giản,
cần 15 ngày để doanh nghiệp nộp công bố chất lượng sản phẩm và được xác
nhận hợp quy.
Tuy nhiên, có hai việc có thể học được từ kinh nghiệm các nước phát
triển. Thứ nhất, mặc dù hồ sơ xem xét rất lâu, phức tạp nhưng về thành
phần hồ sơ được minh bạch hóa tối đa, gồm những hồ sơ nào, hơn nữa hồ sơ
rất dễ hiểu, dễ điền thông tin, bảo đảm không nhầm lẫn được. Còn ở Việt
Nam, như quy định phải có các chứng từ chứng minh bảo đảm an toàn thực
phẩm, quy định như vậy thì mỗi người có một kiểu chứng minh. Lẽ ra cần
quy định rõ là chứng từ nào, ví dụ chứng minh thư, khi đưa lên, bảo đảm
không nhầm lẫn được, người cung cấp biết cần cung cấp loại hồ sơ nào.
Hơn nữa, có 2 thời hạn, thời hạn thứ nhất là để xem đã đủ hồ sơ chưa
và thời hạn thứ hai là xem xét hồ sơ khi đã đủ. Ví dụ thời hạn 15 ngày
thì với một số công chức không thực sự thành tâm với doanh nghiệp, họ sẽ
đợi 15 ngày rồi nói là không đủ.
Kinh nghiệm thứ hai, theo tôi, ở các nước phát triển thì doanh nghiệp
sản xuất không tự đi làm các thủ tục đâu. Chúng ta đã học ở 2 lĩnh vực
là hải quan và thuế. Ví dụ khai hải quan có rất nhiều công ty khai thuê
hồ sơ chuyên nghiệp, khi nộp vào không có chuyện trả lại. Về lĩnh vực
thuế, không ai thạo về thuế cả, cũng có các công ty chuyên đi kê khai
thuế. Trong lĩnh vực ATTP sẽ càng ngày càng phức tạp, đất nước càng phát
triển thì người dân càng quan tâm tới vấn đề VSATTP, do đó hồ sơ ngày
càng phức tạp, từ dư lượng kháng sinh, hàm lượng vi sinh đến kim loại
nặng… Doanh nghiệp không làm được nếu không có phòng ban chuyên môn
chuyên sâu về lĩnh vực này. Do đó, nên có các công ty đi làm việc đó cho
doanh nghiệp, từ đó rút ngắn thời gian, công sức và chi phí cho DN.
Cục trưởng Cục ATTP Nguyễn Thanh Phong: Rất tiếc hôm
nay không có DN làm trực tiếp, vì làm thủ tục qua mạng sẽ biết rõ
chuyên viên nào làm, làm đến đâu… Đối với thực phẩm là hàng hóa nhóm 2
thì không thể chỉ nhìn cảm quan mà nói đạt hay không đạt. Làm thủ tục
qua môi trường mạng nên nếu không đủ hồ sơ thì máy không nhận. Do đó khi
đã nhận hồ sơ nghĩa là DN đã có đủ hồ sơ, tối đa sau 15 ngày trả lời.
|
Đại diện VASEP tại đối thoại. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký VASEP:
Về phía Hiệp hội, liên quan đến vấn đề chúng ta đang thảo luận, chúng
tôi đề nghị các cơ quan có thẩm quyền nên có sự quan tâm, xem xét tới
các thủ tục liên quan. Nếu có những hướng dẫn cụ thể nhất thì trên cơ sở
đó trách nhiệm của doanh nghiệp sẽ nâng cao và họ sẽ làm rất tốt. Chúng
tôi chỉ kiến nghị về góc độ thủ tục còn quy định thì chúng tôi chấp
hành bởi vì đó là việc an toàn cho sức khoẻ con người. Thủ tục giúp cho
doanh nghiệp có thể làm nhanh nhất trong điều kiện có thể để trên cơ sở
đó bảo đảm điều kiện kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp bởi vì có
nhiều doanh nghiệp họ có thể làm hàng trăm sản phẩm một năm nhưng cũng
có doanh nghiệp chỉ làm một, hai sản phẩm một năm. Nhiều khi có vấn đề
trục trặc về thủ tục kéo dài thời gian sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất của họ.
Chúng tôi thiết tha đề nghị các cơ quan Nhà nước trong nỗ lực kiến
tạo, nếu có những giải quyết tối đa giúp doanh nghiệp thì cũng nghiên
cứu thêm để làm sao một mặt nâng cao trách nhiệm về phía doanh nghiệp.
Ví dụ, các vấn đề về chỉ tiêu thì trên cơ sở quy định rõ đối với ngành
hàng, mặt hàng cụ thể, DN phải áp vào những chỉ tiêu a, b, c, d như thế
nào hoặc theo những thông tư nào, theo những quy định cụ thể hoặc quy
chuẩn nào để trên cơ sở đó họ chuẩn bị và biết đạt hay không. Như vậy
anh công bố thì anh phải chịu trách nhiệm về công bố đó chứ không phải
doanh nghiệp công bố rồi sau đó Bộ Y tế sẽ cho cái giấy xác nhận đủ điều
kiện. Tôi nghĩ nên đi theo hướng tiếp cận là doanh nghiệp chịu trách
nhiệm về vấn đề đó thì họ mới chịu trách nhiệm đến cùng.
Chúng tôi rất cảm ơn các bộ đã có sự hỗ trợ trong thời gian qua, rút
ngắn thời gian rất nhiều. Tuy nhiên, vẫn chưa đủ so với nhịp độ phát
triển của thị trường nên chúng tôi thiết tha mong rằng giảm thêm được
thời gian làm thủ tục bằng cách tăng cường thời gian hoạt động chuẩn bị
hơn chứ nhiều khi sản phẩm đưa về rồi lại mất thêm 45 ngày để thực hiện
thủ tục đưa ra thị trường thì rất ảnh hưởng đến doanh nghiệp, vấn đề
kinh doanh, vấn đề lãi suất. Cái này cần quy định cụ thể từ phía cơ
quan, thời gian tiếp nhận giống như anh Khánh nêu. Chúng tôi thống nhất
là phải cho thời gian cụ thể ngay vào chủ trương rồi sau đó xét tiếp,
nếu cái nào cần thiết thì ta cứ cấp sau đó ta hậu kiểm hoặc ta xếp loại
doanh nghiệp.
|
Đại diện Bộ TN&MT. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Sau khi trao đổi, tôi thấy ý
của VASEP là không phải DN chỉ đưa hồ sơ lên để cơ quan có thẩm quyền
của Nhà nước nói rằng đã nhận được hồ sơ rồi sau đó tự động doanh nghiệp
chịu trách nhiệm và đưa ra thị trường. Anh đồng ý với ý kiến của Bộ Y
tế là vẫn phải xem xét tuân thủ. Tôi cho rằng điểm ấy rất quan trọng. Có
điều ý anh vừa nói chính là việc của Hiệp hội. Kiến nghị các doanh
nghiệp phải chuẩn bị trước khi nhập chính thức về chính là việc của Hiệp
hội với doanh nghiệp; còn phía Nhà nước, anh Cường sẽ trả lời hai câu
hỏi như anh Khánh nói: Thứ nhất, mình có đồng ý là tới đây trong các
hướng dẫn của mình dù mẫu biểu rất nhiều nhưng làm sao phải rất rõ; thứ
hai, có đồng ý với dự định ban đầu mà các bộ cũng đã làm rồi là tối đa
15 ngày nhưng nên quy định trong thời hạn mấy ngày là phải trả lời DN hồ
sơ đã đủ chưa (1 ngày, 2 ngày, tối đa là 3 ngày thôi); không để tình
trạng 8, 9, 10 ngày rồi mới nói hồ sơ của anh không đủ. Đề nghị Bộ Y tế
trả lời để khép vấn đề này lại?
Đại diện Bộ Y tế: Thưa các đồng chí, không có chuyện
trong vòng 15 ngày mà đến 7, 8 hay 9 ngày mới trả lời là không đủ hồ sơ
mà không đủ hồ sơ thì không được nhận ngay từ đầu. Ví dụ, anh có 12 đầu
hồ sơ, anh đến bộ phận hành chính đếm đủ 12 đầu hồ sơ thì anh sẽ được
nhận nên không có câu trả lời đủ hay thiếu mà chỉ có đáp ứng hay không
đáp ứng.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký VASEP: Chúng tôi sẽ
tập hợp thêm hồ sơ, ý kiến DN về vấn đề này. Tuy nhiên, chúng tôi cũng
tập hợp ý kiến từ các doanh nghiệp, khi nào nhiều doanh nghiệp cùng kiến
nghị, mang tính phổ biến thì chúng tôi mới gửi tới các cơ quan Nhà
nước.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Qua cuộc đối thoại hôm
nay, thấy rõ hơn bức tranh thực tế. Chúng tôi đề nghị đại diện các bộ
hôm nay không nghe rồi về báo cáo lại, thì các Hiệp hội cũng cố gắng
không chỉ tiếp nhận ý kiến doanh nghiệp rồi về thông báo lại. Anh Phong
nói luật quy định tối đa 15 ngày làm thủ tục nhưng thực tế đa số chỉ 9
ngày.
Ông Trương Đình Hòe: Chúng tôi đề nghị Bộ xem xét
giảm được thời gian thì giảm nữa. Vì trên Bộ Y tế có thể làm thủ tục
trong 8-9 ngày nhưng địa phương dài hơn, nên xem xét và giúp đỡ địa
phương. Chúng tôi muốn thời gian nhanh nhất chứ không nhất thiết phải bỏ
những thủ tục đó.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Qua môi trường mạng thì
làm sao có những phần mềm để các cơ quan bên dưới cùng một nền tảng với
Bộ, làm thủ tục nhanh hơn. Đồng thời làm sao có những công cụ phát hiện
tự động. BHYT còn làm giám định tự động với 21.000 loại thuốc. Còn về
việc quản lý theo ngành hàng, Luật ATTP quy định phân công đầu mối theo
ngành hàng, cả thế giới làm như vậy, cách làm rất tiên tiến. Như vậy,
qua đối thoại, vấn đề này, các bên còn có ý kiến nào không?
* Đại diện Hiệp hội VASEP và Bộ Y tế thống nhất không còn ý kiến về vấn đề này.
Các kiến nghị liên quan tới lĩnh vực TN&MT
Phó Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Văn Tùng: Lĩnh vực
TN&MT, VASEP có các kiến nghị về bất cập vướng mắc liên quan đến xử
lý chất thải rắn, xử lý nước thải, bùn thải trong nhà máy chế biến thủy
sản, phương án bảo vệ môi trường; vị trí, vai trò, trách nhiệm của Sở
TN&MT trong hỗ trợ cho DN; giá trị pháp lý của các số liệu quan trắc
tự động.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân: Về quản lý
chất thải rắn nguy hại theo quy định là phải có đơn vị đủ điều kiện xử
lý thì mới được phép tiếp nhận. Vừa qua có DN đã hợp đồng để cơ sở thu
gom rác thải đem đi đổ bừa bãi,. Những DN ở vùng xa xôi, hẻo lánh thì cơ
sở thu gom chất thải nguy hại phải được ủy thác từ DN có đủ điều kiện
xử lý.
Ông Trương Đình Hòe: Chúng tôi chỉ nêu vấn đề là có
thực tế cơ sở thu gom ở địa phương chưa có giấy phép hành nghề hoặc DN
thủy sản đã ký hợp đồng cho cơ sở thu gom nhưng vẫn phải cung cấp chứng
từ chứng minh cơ sở đó đã đổ, xử lý chất thải đó ở đâu. Nếu đã ký hợp
đồng thì chúng tôi hiểu là cơ sở thu gom phải có trách nhiệm báo cáo với
Thanh tra TNMT chứ không phải là DN thủy sản.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Hoàng Dương Tùng: Quy định như vậy được áp dụng riêng đối với chất thải rắn nguy hại, chứ không phải là đối với chất thải rắn thông thường.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Vấn đề là cách giải thích, vì vậy Bộ TN&MT phải hướng dẫn lại cho DN.
Ông Trương Đình Hòe: Có DN thủy sản phản ánh kể cả
rác thải là bao bì các-tông, không phải chất thải nguy hại nhưng DN vẫn
bị xử phạt vì không có quy định. Tuy nhiên, vấn đề này chúng tôi sẽ trao
đổi, hướng dẫn cụ thể lại cho DN.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân: Lập
phương án bảo vệ môi trường, Hiệp hội có đề xuất là điều này không cần
thiết và làm mất thêm thời gian và chi phí của doanh nghiệp. Báo cáo các
đồng chí, Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) Điều 68 đã quy định các doanh
nghiệp cần lập phương án BVMT. Hiệp hội đề xuất đã ĐTM (đánh giá tác
động môi trường) thì không cần lập phương án này. ĐTM là bắt buộc nhưng
ĐTM cũng chỉ là cái phân tích dự báo trong quá trình triển khai dự án;
xây dựng như thế nào, vận hành như thế nào và kết thúc như thế nào.
Không ĐTM là vi phạm pháp luật. Phương án BVMT là phương án chủ doanh
nghiệp, chủ sản xuất kinh doanh lập ra lộ trình BVMT như thế nào và
phương án này chỉ do chủ cơ sở sản xuất kinh doanh ký ban hành để cho
cấp dưới cùng thực hiện và cơ quan quản lý biết để quản lý.
Thứ hai là trách nhiệm của Sở. Luật BVMT phân cấp rất rõ ràng, cấp Sở
như thế nào, cấp tỉnh như thế nào, cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh
như thế nào trong vấn đề BVMT. Luật Chính quyền địa phương cũng quy định
rất rõ nên cái này không có gì để Bộ hay Thủ tướng phải giải thích
thêm. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ cũng đã có chỉ thị: Nơi nào diễn ra
vấn đề môi trường nghiêm trọng, Chủ tịch UBND tỉnh đó phải có trách
nhiệm thực hiện đúng Luật BVMT, đúng Luật Tổ chức chính quyền địa
phương. Tất cả các đánh giá BVMT mà Bộ phê duyệt đều có giao Tổng cục
Môi trường phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường các địa phương quản
lý các hoạt động của doanh nghiệp. Tất cả các hệ thống quan trắc tự động
hiện nay đều phải nối mạng về Sở TN&MT địa phương quản lý. Sở Tài
nguyên và Môi trường địa phương có trách nhiệm thanh tra chuyên ngành
tất cả các hoạt động của doanh nghiệp bất kỳ lúc nào.
Về nội dung quan trắc môi trường tự động có giá trị pháp lý hay
không? Báo cáo các đồng chí, Điều 39 Nghị định 38 yêu cầu quản lý chất
thải thì tất cả các cơ sở sản xuất 1.000 m3 chất thải một ngày đêm đều
phải phải quan trắc tự động. Đây là 1 căn cứ pháp lý và căn cứ vào Luật
Tiêu chuẩn đo lường chất lượng và Thông tư 23 ngày 26/9/2013 của Bộ Khoa
học và Công nghệ hướng dẫn thực hiện quy định này. Theo đó, yêu cầu
thiết bị phải được kiểm định tiêu chuẩn và chạy thử theo quy định của
pháp luật. Vì vậy, độ sai sót cho phép căn cứ vào quy định pháp lý. Theo
Quyết định 65 thì thiết bị này là phương tiện phát hiện vi phạm hành
chính, là căn cứ pháp lý để xử lý vi phạm hành chính. Nếu anh vi phạm
lần đầu thì nhắc nhở nhưng lần 2 kiểm tra với phân tích thực tế thì xử
phạt theo quy định. Ngoài các chỉ tiêu quan trắc tự động thì có các chỉ
tiêu quan trắc thường kỳ để kiểm tra thường xuyên.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Hoàng Dương Tùng:
Về kiến nghị bùn thải của nhà máy thuỷ sản là chất thải không nguy hại,
kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường bỏ kiểm tra bùn thải để tránh
những chi phí không cần thiết từ 60 đến 80 triệu đồng/năm.
Xin trả lời, không chỉ riêng với thuỷ sản mà tất cả các ngành đều
phải phân định chất thải có nguy hại hay không. Nếu chứng minh được đó
không phải chất thải nguy hại thì có cách xử lý riêng và nếu nguy hại
thì sẽ có cách xử lý khác. Doanh nghiệp chỉ cần kiểm tra một lần trong
suốt quá trình sản xuất và đến khi nào doanh nghiệp thay đổi công nghệ
thì mới phải làm lại. Chi phí đó chỉ mất một lần.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Nó chỉ áp dụng với ngành thuỷ sản hay với tất cả các ngành sản xuất khác?
Phó Tổng cục trưởng Hoàng Dương Tùng:
Báo cáo Phó Thủ tướng, tất cả hoạt động sản xuất xử lý nước thải nếu có
bùn thải đều phải làm như vậy chứ không chỉ riêng thuỷ sản.
Đại diện Hiệp hội VASEP: Theo quy định về ngưỡng
nguy hại có kèm theo danh mục từ các thông số từ 1 đến 15 về bùn thải
thông thường thì ngành thuỷ sản không phải bùn thải nguy hại nên các
doanh nghiệp xin kiến nghị là cần phải làm thủ tục này để giảm thiểu thủ
tục hành chính và chi phí.
Phó Tổng cục trưởng Hoàng Dương Tùng:
Chưa có ai khẳng định chắc chắn rằng các bùn thải của sản xuất thuỷ sản
không có những chất nguy hại. Đây là câu chuyện xử lý nước thải của tất
cả các ngành nên chỉ cần thử một lần để phân định rõ vì bây giờ doanh
nghiệp sử dụng rất nhiều công nghệ khác nhau nên rất khó kiểm soát. Cái
này cũng là để bảo vệ môi trường.
Đại diện Bộ TN&MT: Tới đây, Bộ
đã có kế hoạch ban hành thông tư hướng dẫn xử lý chất thải nguy hại và
không nguy hại, theo kế hoạch thì khoảng tháng 8 sẽ ban hành.
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký VASEP: Về phí
bảo vệ môi trường với nước thải theo Nghị định 154 năm 2016, có hiệu lực
từ 1/1/2017: Bổ sung 4 thông số phải tính phí là thủy ngân, asen,
cadimium, chì. Nhưng theo Quy chuẩn 11 năm 2015 của Bộ TN&MT thì
không có các thông số này. Bộ chưa có văn bản hướng dẫn nhưng một số Chi
cục Bảo vệ môi trường đã bắt đầu hướng dẫn DN thủy sản kê kai nộp phí
theo Nghị định 154.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân: Chúng tôi xin tiếp thu và sẽ có hướng dẫn của Bộ. Chúng tôi khuyến khích địa phương có quy chuẩn phù hợp thực tế.
Phó Tổng cục trưởng Hoàng Dương Tùng: Có sự hiểu
nhầm của địa phương về Nghị định 154. Với DN thủy sản chỉ phải theo Quy
chuẩn 11 năm 2015 mà thôi, nếu có yêu cầu thực hiện thông số khác là
thực hiện sai.
|
Quang cảnh cuộc đối thoại. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Đề nghị Bộ có thể ra một công văn là xong.
Ông Trương Đình Hòe: Liên quan tới phương án bảo vệ môi trường,
chúng tôi xin tiếp thu giải thích của anh Võ Tuấn Nhân, hướng dẫn lại
DN làm thực chất, hằng năm chứ không chỉ đối với với các sở. Nếu sau này
có vấn đề gì thì đề nghị Bộ trả lời sớm, vì những vấn đề này gửi đã lâu
mà không có thấy trả lời. Anh Nhân đã giải thích rất rõ.
Còn vấn đề thứ hai về vai trò của các Sở TN&MT, các DN thường
xuyên làm việc với các sở. Nhưng sau đó Thanh tra Bộ làm việc, có cái
thì đạt theo yêu cầu của Sở, nhưng lại không đạt theo Thanh tra, nên DN
bức xúc. Hai nữa, ngoài kiểm tra định kỳ thì còn nhiều cuộc kiểm tra đột
xuất. Đề nghị Bộ có thêm ý kiến về thanh tra môi trường, phối hợp giữa
các cơ quan để các DN khỏi bị bỡ ngỡ.
Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân: Chúng tôi nghiêm túc thực
hiện yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ là chỉ thanh tra, kiểm tra mỗi năm
một lần đối với một doanh nghiệp, cùng các cơ quan khác. Nhưng chúng tôi
sẽ tăng cường giám sát, như có thể im lặng đến lấy mẫu rồi về.
* Đại diện Công ty Thông Thuận trình bày về trường hợp khi xây dựng
nhà máy mới thì các cơ quan chức năng không có ý kiến, nhưng sau khi xây
dựng xong thì yêu cầu phải thực hiện theo Quy chuẩn 11 năm 2015 về tiêu
chuẩn phosphorus và xin được tháo gỡ cụ thể.
Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân: Với trường hợp cụ thể sẽ tháo gỡ.
* Tới đây, các đại biểu tham dự Hội nghị cùng dành một tràng pháo
tay để thống nhất hướng xử lý như trên với các vấn đề đặt ra.
Các kiến nghị liên quan tới lĩnh vực nông nghiệp
Phó Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Văn Tùng: Các kiến nghị về
phí, lệ phí của VASEP làm giảm bớt mức phí trong các hoạt động thẩm
định; lấy mẫu kiểm tra tại DN; xác nhận nguồn gốc nguyên liệu thủy sản;
kiểm dịch cho lô hàng nhập khẩu; những bất cập vướng mắc về quản lý thuế
theo nguyên tắc kiểm tra trước hoàn thuế sau.
Ông Trương Đình Hòe: Đến nay một số kiến nghị của
VASEP đã được giải quyết một phần. Vừa qua Bộ Tài chính, Bộ NN&PTNT
và các cơ quan đã đi khảo sát tại các DN thủy sản ở đồng bằng sông Cửu
Long và đang trong quá trình xem xét xử lý kiến nghị của VASEP để giúp
DN giảm chi phí.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Như vậy là các kiến nghị này đang được xem
xét rồi. Chúng ta còn 30 phút làm việc, đề nghị nếu có đại diện doanh
nghiệp nào ở đây, xin nêu các kiến nghị trực tiếp.
Đại diện Công ty Chế biến thực phẩm Đông Đô: Nghị
định 43 mới ban hành về nhãn mác hàng hóa vừa ra đời nhưng thời điểm có
hiệu lực rất nhanh, trong vòng 47 ngày từ khi ban hành đến khi có hiệu
lực. Tuy nhiên DN cần thời gian dài hơn để chuẩn bị thực hiện theo quy
định. Thậm chí có gửi văn bản hỏi cơ quan chức năng nhưng rất lâu sau
mới nhận được trả lời hoặc chưa có hướng dẫn cụ thể từ cơ quan quản lý.
Trong khi đó nhiều đoàn kiểm tra lại chỉ căn cứ vào nghị định nên DN dễ
bị xử phạt. Thứ hai là DN cũng muốn được các cơ quan quản lý tập huấn
trước khi ban hành, thực hiện những văn bản mới.
Tổng cục trưởng Tổng cục Đo lường-Chất lượng Trần Văn Vinh:
Nghị định 43 khi được ban hành hướng dẫn cụ thể và thay thế các thông
tư về nhãn mác hàng hóa do các bộ chuyên ngành ban hành trước đây. Do
vậy những thông tin chưa rõ thì đề nghị DN có văn bản hỏi rõ, gửi sớm để
cơ quan chức năng trả lời. Về nguyên tắc Nghị định 43 không cần ban
hành thông tư hướng dẫn của Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Nhưng nghị định phải có thời gian chuyển tiếp để DN chuẩn bị thực hiện.
Tổng Cục trưởng Trần Văn Vinh: Trong Nghị định 43 có quy định DN có 2 năm chuyển tiếp.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Các DN phản ánh phải trên
tinh thần xây dựng. Theo quy định thì Nghị định có hiệu lực sau khi ban
hành 45 ngày và tinh thần của Chính phủ thì luật hạn chế tối đa ban hành
nghị định, nghị định thì hạn chế tối đa phải có thông tư. DN cũng cần
phải chủ động tìm hiểu đầy đủ các quy định, văn bản của cơ quan Nhà nước
ban hành.
Đại diện VASEP: Chúng tôi có một số kiến nghị, liên
quan đến công chứng, theo phản ánh của một số DN là phí công chứng quá
cao, một DN làm hợp đồng thế chấp cần phải có công chứng thì bị tính phí
là 40 triệu đồng, làm cho chi phí DN tăng cao. Trong khi đó, trước đây
phí công chứng tối đa chỉ là 10 triệu đồng cho mỗi hợp đồng công chứng
thôi.
Một vấn đề khác, ngay sau cuộc họp ngày 13/3, ngày 14/3, Bộ Y tế có
văn bản 1216 để triển khai kết quả, tại Khoản 2 ghi rằng các DN sử dụng
muối trong chế biến thực phẩm cho tiêu dùng trong nước đều phải sử dụng
muối có tăng cường iodine. Tức là Điều số 2 theo văn bản này khiến cho
DN làm hàng cho kênh nội địa hỏi lại, phía Hiệp hội có văn bản hỏi Bộ Y
tế về kết luận cuộc họp này. Nghị định 09 không yêu cầu sử dụng muối có
iodine tại nhà máy chế biến thực phẩm cũng như không kiểm soát hàm lượng
này mà chỉ kiểm soát tại các nhà máy sản xuất, cung cấp muối công
nghiệp thôi. Theo VASEP, khoản 2 của văn bản này chưa tương thích với
kiến nghị và kết luận, do đó mong muốn được giải đáp thêm cho các DN làm
hàng nội địa?
Đại diện Bộ Tư pháp: Về phản ánh của VASEP liên quan
tới phí công chứng, bắt đầu từ 2016 áp dụng mức phí công chứng mới theo
Thông tư 258 của Bộ Tài chính. Trong khi phối hợp với Bộ Tài chính làm
thông tư này, Bộ Tư pháp đã tính toán cân nhắc kỹ các khoản phí phù hợp
chi phí bỏ ra. Theo Thông tư này, quy định mức phí rất khác nhau. Trước
đây khống chế tối đa hợp đồng giao dịch phí công chứng 10 triệu đồng,
nhưng theo thông tư mới thì mức tối đa là 70 triệu đồng, mức cụ thể theo
giá trị khoản vốn vay, vay càng nhiều phí càng lớn. Công chứng không
chỉ ký và đóng dấu, nếu chỉ ký đóng dấu thì thế là cao, nhưng để ký và
đóng dấu thì phải kiểm tra rà soát xem tài sản đã cầm cố thế chấp ở đâu
chưa, chủ sở hữu là ai? Trong bối cảnh ở Việt Nam chia sẻ thông tin khó
khăn, chưa cập nhật thông tin về bất động sản, nên chi phí bỏ ra lớn.
Chúng tôi cũng sẽ rà soát lại. Ngoài ra, công chứng giao dịch liên quan
tới cầm cố thế chấp nghĩ cho cùng là phục vụ kinh doanh của ngân hàng,
bảo đảm kinh doanh của ngân hàng nên đề nghị Hiệp hội có ý kiến để phía
ngân hàng chia sẻ một phần chi phí công chứng.
Đại diện Bộ Y tế: Ngay sau khi có kết luận chỉ đạo
của Phó Thủ tướng, Bộ Y tế đã có công văn, thực chất của Khoản 2 công
văn là giải thích lại Khoản a Điểm 1 Điều 6 Nghị định 09, cụ thể là đối
với việc bắt buộc phải tăng cường bổ sung muối iodine đối với các cơ sở
sản xuất muối iodine để bán ra, tức là chỉ áp dụng với cơ sở sản xuất
kinh doanh muối iodine. Còn đối với cơ sở mua muối iodine về để chế biến
thực phẩm thì không bắt buộc phải công bố tiêu chuẩn, chỉ yêu cầu mua
muối ở cơ sở sản xuất có bổ sung iodine chứ không bắt DN công bố tiêu
chuẩn bổ sung iodine. Đồng thời cũng không quy định việc kiểm tra, xét
nghiệm đối với sản phẩm thực phẩm có sử dụng muối.
|
Đại diện Cục VSATTP, Bộ Y tế. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Tôi đánh giá rất cao nỗ lực
của các bộ. Cùng với hình thức kiểm tra trực tiếp các bộ, thì các cuộc
làm việc như thế này rất hiệu quả. Các bên ngồi trực tiếp với nhau mới
thấy không phải tất cả kiến nghị của DN đều nên chấp thuận hết, vì cơ
quan quản lý cũng có lý do. Tuy nhiên, sau khi cơ quan quản lý giải
thích thì DN rất hài lòng. Có những thứ các bên đồng ý với nhau, nhưng
do câu chữ nên có cách hiểu khác nhau. Và cũng có những vấn đề ý kiến DN
là đúng, vì người làm văn bản chưa lường hết được. Tinh thần của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ là rất cầu thị, thậm chí văn bản ra chưa thi
hành mà có vấn đề thì vẫn sửa đổi.
Tôi cho rằng đây là việc rất tốt, tôi rất mong muốn có nhiều cuộc thế
này, không cần có Phó Thủ tướng chủ trì. Thủ tướng đã giao Cổng TTĐT
Chính phủ có một diễn đàn tiếp nhận ý kiến phản biện chính sách, kiến
nghị của DN, khi nhận kiến nghị thì Cổng đã chuyển ngay các bộ rồi. Các
cuộc làm việc như thế này thì giải quyết các vấn đề liên ngành hoặc đã
xử lý rồi nhưng DN chưa thấy thuyết phục. Ta nên tiếp tục làm, nhưng sau
này không nhất thiết phải có Phó Thủ tướng. Tôi đề nghị VPCP cùng với
Bộ KH&ĐT lựa chọn các vấn đề để làm việc, trên tinh thần xây dựng và
cởi mở, với sự tham gia rất quan trọng của báo chí. Thông điệp là DN
không nên ngại, nếu có vướng mắc thì cứ mạnh dạn kiến nghị./.
Theo Cổng TTĐT Chính phủ