“Kính thưa Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, hôm nay Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII bắt đầu họp Hội nghị lần thứ năm để thảo luận, cho ý
kiến và quyết định về các nội dung: (1) Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp
luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. (2)
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn. (3) Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. (4) Đề án xây dựng tổ chức cơ sở đảng
và đảng viên. (5) Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực. (6) Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư năm 2021; và một số vấn đề quan trọng khác.
Trước hết, tôi xin được thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, và với
tình cảm cá nhân, nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, các vị đại biểu khách mời đã về dự Hội nghị và xin
gửi tới các đồng chí lời thăm hỏi chân tình và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng chí,
Để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
đã sớm thành lập các ban chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết, xây dựng các báo
cáo, đề án về những nội dung nêu trên để báo cáo Bộ Chính trị thảo
luận, cho ý kiến và trình Trung ương xem xét, quyết định.
Các ban chỉ đạo đã bám sát Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà
nước và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, kết
luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng như
tình hình thực tiễn của đất nước, khu vực và thế giới để tiến hành tổng
kết, nghiên cứu, xây dựng các báo cáo, đề án, tờ trình, dự thảo các nghị
quyết trình Trung ương.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã nghiêm túc kiểm điểm sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021 gắn với thực hiện Kết luận
của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị để xây dựng các báo cáo trình Hội nghị Trung ương lần
này.
Theo Quy chế làm việc, Văn phòng Trung ương Đảng đã gửi các tài liệu
để các đồng chí nghiên cứu trước. Sau đây, tôi xin phát biểu lưu ý thêm
một số vấn đề liên quan đến nội dung của các báo cáo, đề án, có tính
chất gợi mở, mong được các đồng chí quan tâm trong quá trình thảo luận,
xem xét, quyết định.
1. Về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai
Chúng ta đều đã biết, đất đai là tài sản đặc biệt của quốc gia, là tư
liệu sản xuất cơ bản, là tài nguyên vô cùng quý giá, là nguồn sống của
nhân dân và nguồn lực to lớn của đất nước, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Tôi đã nhiều lần nhắc lại câu nói của Các Mác rằng: "Lao động là cha,
đất đai là mẹ của của cải vật chất"; nhiều người giàu lên nhờ đất,
nhưng cũng có không ít người nghèo đi vì đất, thậm chí bị đi tù cũng vì
đất, mất cả tình nghĩa cha con, anh em vì đất... Không phải ngẫu nhiên
mà trong thời gian qua có tới hơn 70% số vụ tố cáo, khiếu nại thuộc về
lĩnh vực đất đai. Vì vậy, việc tổng kết thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6 khóa XI về đất đai lần này là một yêu cầu cần thiết nhằm
thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
thể chế, chính sách, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong công tác
quản lý và sử dụng đất đai, bảo đảm hài hòa các lợi ích của Nhà nước,
người dân và nhà đầu tư, tạo nguồn lực và động lực mới để phấn đấu đến
năm 2030 nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung
bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Đây là một lĩnh vực rất rộng lớn, cơ bản, hết sức phức tạp, nhạy cảm,
đặc biệt quan trọng, hệ trọng đối với sự ổn định và phát triển bền vững
đất nước, hiện vẫn còn không ít ý kiến khác nhau. Khi thảo luận, đánh
giá tình hình và nguyên nhân, chúng ta cần nắm vững phương pháp duy vật
biện chứng, các quan điểm và nguyên tắc cơ bản đã được xác định trong
Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp của Nhà nước để phân tích một cách toàn
diện, khách quan kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách, biện
pháp nêu trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI và pháp luật về đất đai;
chỉ rõ nội dung của Nghị quyết đã được thể chế hoá như thế nào? Những
điểm gì thể chế hóa đúng, điểm gì chưa đúng? Những quan điểm, yêu cầu
quan trọng nào của Nghị quyết chưa được thể chế hóa hoặc chưa được thực
hiện một cách nghiêm túc? Tình hình thực hiện trong thực tế như thế nào?
Những chủ trương, chính sách gì cần bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh?...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc Hội nghị. (Ảnh: TTXVN)
Đồng thời với việc khẳng định những chuyển biến tích cực và những kết
quả nổi bật đã đạt được trong gần 10 năm qua, cũng cần thẳng thắn chỉ
ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Tập trung làm rõ: Vì sao nguồn
lực đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng
phục vụ phát triển kinh tế-xã hội? Vì sao ở nhiều nơi, việc sử dụng đất
còn lãng phí, hiệu quả thấp; tệ tham nhũng, tiêu cực liên quan đến đất
đai chậm được đẩy lùi, thậm chí gia tăng? Vì sao số vụ khiếu nại, tố cáo
thuộc về lĩnh vực đất đai vẫn còn nhiều và phức tạp? Vì sao thị trường
bất động sản phát triển thiếu lành mạnh, chưa bền vững và còn tiềm ẩn
nhiều rủi ro?... Đâu là nguyên nhân thuộc về quan điểm, chủ trương,
chính sách nêu trong Nghị quyết và bất cập của Luật Đất đai năm 2013?
Đâu là do các quy định dưới luật còn bất cập; có quá nhiều quy định
chồng chéo, mâu thuẫn? Và đâu là do việc tổ chức thực hiện yếu kém của
các cơ quan quản lý nhà nước; do nhận thức chưa đầy đủ và ý thức chấp
hành luật pháp chưa nghiêm?...
Trên cơ sở đó, đề xuất các chủ trương, định hướng tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện thể chế, chính sách về đất đai; chú ý các vấn đề hiện đang
vướng mắc hoặc gây bức xúc trong xã hội và những nội dung còn có ý kiến
khác nhau.
Chẳng hạn như: Nhận thức như thế nào cho thật đầy đủ, đúng đắn về sở
hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu; quyền hạn,
trách nhiệm của Nhà nước với vị trí, vai trò là đại diện chủ sở hữu,
thực hiện chức năng, nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai và
khi là chủ thể sử dụng đất. Chủ trương, chính sách về đất đai, nhất là
về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; về giao đất, cho thuê đất; về hỗ
trợ, bồi thường, tái định cư, thu hồi đất; về tài chính đất đai, xác
định giá đất và phát triển thị trường bất động sản; về chế độ quản lý và
sử dụng đất nông nghiệp, đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc
doanh, và đất cho tôn giáo, tín ngưỡng; việc quản lý nhà nước về đất
đai... cần tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện như thế nào cho đúng, sát
hợp với thực tế và đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới?...
2. Về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí
thư, thời gian qua Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết 15 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã triển
khai tổng kết Nghị quyết một cách nghiêm túc, bài bản, công phu, khoa
học, có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ, với tinh thần trách nhiệm cao
của các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương, các chuyên gia, nhà
khoa học, nhà quản lý; kế thừa kết quả tổng kết các Nghị quyết Trung
ương về chính sách, pháp luật đất đai và kinh tế tập thể.
Báo cáo tổng kết trình Trung ương tại Hội nghị lần này đã đánh giá
một cách khách quan, toàn diện tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương
7 khóa X, chỉ ra những kết quả, thành tựu to lớn, toàn diện, rất ấn
tượng đã đạt được; đồng thời, cũng thẳng thắn nhận diện những hạn chế,
yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân. Từ đó, đề ra quan điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045; và kiến nghị Trung ương xem xét ban hành Nghị quyết mới
để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trong thời kỳ mới.
Đề nghị các đồng chí tham dự Hội nghị hôm nay tập trung nghiên cứu,
thảo luận, tạo sự thống nhất cao về tình hình thực hiện Nghị quyết Trung
ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và những quan điểm,
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra, đáp ứng yêu cầu phát triển của
thời kỳ mới - đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tiếp tục phát huy
thật tốt những kết quả, thành tựu và bài học kinh nghiệm thành công đã
đạt được; khắc phục triệt để những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và
nguyên nhân được rút ra trong quá trình tổng kết là: Nông nghiệp phát
triển còn thiếu bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, tổ chức
sản xuất chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết trong sản xuất
kinh doanh; kinh tế tập thể, hợp tác xã chậm phát triển.
Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn
nhân lực chất lượng cao chưa trở thành động lực chính để tạo đột phá
phát triển. Nhiều loại giống cây trồng, giống vật nuôi, vật tư đầu vào
còn phụ thuộc việc nhập khẩu. Thu hút đầu tư cho phát triển công nghiệp,
dịch vụ ở nông thôn gặp nhiều khó khăn. Cơ giới hóa chưa đồng bộ, công
nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến nông sản phát triển còn chậm. Đào
tạo nghề, giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn
chưa đạt yêu cầu.
Lao động nông thôn có xu hướng già hóa, năng suất lao động còn thấp.
Thu nhập của phần lớn nông dân chưa cao, chênh lệch với thành thị và
giữa các vùng, miền còn lớn; tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn nhiều, nhất
là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng nông
thôn mới chưa đồng đều, nhiều nơi chưa chú trọng đúng mức tới phát triển
sản xuất, tạo sinh kế cho người dân; xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ
môi trường; mức đạt tiêu chí nông thôn mới ở những vùng khó khăn còn
thấp; nhiều vấn đề xã hội phát sinh, gây bức xúc trong nhân dân; ô nhiễm
môi trường nông thôn gia tăng ở nhiều địa phương. Năng lực thích ứng
với biến đổi khí hậu còn yếu; phòng, chống thiên tai, dịch bệnh chưa đáp
ứng yêu cầu.
3. Về tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa IX tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
tập thể
Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và các Nghị quyết Đại hội
Đảng đều khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế tập thể; xác
định phát triển kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Để đổi mới, nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục
những hạn chế, yếu kém của mô hình hợp tác xã kiểu cũ, ngày 18/3/2002,
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp
tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Báo cáo tổng kết 20 năm (2002-2022) thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa IX đã được xây dựng công phu, nghiêm túc trên cơ sở Báo cáo tổng
kết, báo cáo chuyên đề của các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và 63 tỉnh
ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; kết quả nghiên cứu, khảo sát của Ban
Chỉ đạo tại một số địa phương; ý kiến tham gia tại 12 cuộc hội thảo
chuyên gia, 3 Hội nghị cán bộ toàn quốc tổng kết 20 năm thực hiện Nghị
quyết, và Báo cáo tư vấn của Hội đồng Lý luận Trung ương.
Qua tổng kết cho thấy sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa IX, khu vực kinh tế tập thể nước ta đã có những chuyển biến tích
cực. Nhận thức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về phát
triển kinh tế tập thể, hợp tác xã được nâng lên. Hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách được quan tâm xây dựng, phù hợp với từng giai đoạn phát
triển. Hợp tác xã đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi theo quy định của
pháp luật. Số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập mới tăng
đáng kể; nhiều hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đa dạng hơn
về ngành nghề, quy mô và trình độ, hỗ trợ tốt hơn cho kinh tế thành
viên, tạo việc làm và thu nhập thường xuyên cho người lao động.
Tổ hợp tác với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, nội dung hoạt động đơn giản
nhưng thiết thực, đáp ứng được nhu cầu liên kết linh hoạt và mang tính
ngắn hạn của người dân. Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau và với các
tổ chức kinh tế khác bước đầu có sự phát triển. Khu vực kinh tế tập thể
cơ bản đã khắc phục được tình trạng yếu kém kéo dài, góp phần xây dựng
nông thôn mới, bảo đảm an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, từng
bước khẳng định vị trí, vai trò nền tảng trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, khu vực kinh tế tập thể của nước ta đến nay vẫn chưa đạt
mức phát triển như mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể còn gặp nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng,
tỉ trọng đóng góp vào GDP cả nước của khu vực kinh tế tập thể còn thấp
và có xu hướng giảm dần. Hợp tác xã phát triển không đồng đều giữa các
vùng, miền; giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Hoạt động hợp
tác xã chưa trở thành phong trào để thu hút xã viên, hội viên. Số lượng
hợp tác xã tuy tăng nhưng số lượng thành viên bình quân trong hợp tác xã
có xu hướng giảm; thành viên tham gia vào hoạt động của hợp tác xã còn
hình thức, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp
tác xã. Năng lực nội tại của hợp tác xã còn yếu, hiệu quả hoạt động chưa
cao. Phần lớn các tổ hợp tác, hợp tác xã có quy mô nhỏ, vốn ít, phạm vi
hoạt động hẹp, lợi ích mang lại cho thành viên còn thấp; tính liên kết
trong nội bộ hợp tác xã rất yếu; các hoạt động liên doanh, liên kết giữa
các hợp tác xã và giữa hợp tác xã với các tổ chức kinh tế khác chưa phổ
biến. Số lượng liên hiệp hợp tác xã ít; tổ chức và hoạt động của tổ hợp
tác thiếu ổn định; nhiều hợp tác xã chuyển đổi còn mang tính hình thức,
chưa thực sự có chuyển biến về chất.
Quang cảnh hội nghị. (Ảnh: TTXVN)
Đề nghị các đồng chí Trung ương và các đồng chí tham dự hội nghị xuất
phát từ thực tiễn, thảo luận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về
những kết quả, thành tích đã đạt được; đồng thời phân tích sâu sắc
những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân. Từ đó, bám sát Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng và thực tế đất nước, tập trung thảo luận làm
rõ, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về mục tiêu, quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo và những nhiệm vụ và giải pháp lớn cần được quán
triệt và triển khai thực hiện để kinh tế tập thể ngày càng phát triển
mạnh hơn, đúng đắn và lành mạnh hơn, thực sự trở thành một thành phần
kinh tế quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
4. Về Đề án xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
Lâu nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư các khóa đều rất quan tâm, chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ
đạo củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên theo đúng tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần
nhấn mạnh: "Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi
bộ tốt; chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt". Phong trào xây dựng
"đảng bộ bốn tốt", "chi bộ bốn tốt", "đảng viên bốn tốt" được phát động
và duy trì thường xuyên ở nhiều nơi.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn yếu, thậm
chí mất sức chiến đấu; chưa đủ sức phát hiện, giải quyết những vấn đề
phức tạp xẩy ra ở cơ sở, nhất là những nơi có tình hình an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội phức tạp. Công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên chưa thường xuyên, thậm chí một số nơi còn xem nhẹ. Không ít cán
bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị chưa vững vàng; vai trò tiên phong,
gương mẫu còn hạn chế; tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình còn
yếu. Năng lực, trình độ của một số cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, cán bộ,
đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; phương thức lãnh đạo, lề
lối làm việc, nội dung, chế độ sinh hoạt cấp ủy, đảng bộ, chi bộ chậm
đổi mới. Nhiều nơi, chi bộ chưa thể hiện được vai trò là hạt nhân chính
trị, tiên phong, gương mẫu nên nhân dân chưa thực sự tin tưởng. Thậm chí
có một bộ phận cán bộ, đảng viên còn suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", vi phạm nguyên tắc,
kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối
với Đảng.
Chính vì vậy, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về vấn đề
này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Nghị
quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Kết luận số
38-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XII và xây dựng dự thảo Nghị quyết về
tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên trong tình hình mới trình Trung ương xem xét, quyết
định tại hội nghị lần này.
Đề án đã đề cập một cách khách quan, toàn diện tình hình thực hiện
Nghị quyết và Kết luận, chỉ ra những kết quả chủ yếu đã đạt được; những
hạn chế, yếu kém còn tồn tại và phân tích rõ nguyên nhân. Từ đó đề ra
quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới,
tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên trong tình hình mới. Đề nghị các đồng chí nghiên cứu thật kỹ,
thảo luận thật dân chủ, thẳng thắn, tạo sự thống nhất cao về những vấn
đề nêu trong Tờ trình, để sau Hội nghị Trung ương lần này chúng ta có
bước chuyển biến, tiến bộ mới, thực chất, mạnh mẽ, hiệu quả, nhằm nâng
cao hơn nữa chất lượng, sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng ta theo đúng
tinh thần tư tưởng của Lênin "Thà ít mà tốt"; "những đảng viên hữu danh
vô thực thì cho không chúng ta cũng không cần!".
5. Về Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Thực hiện Chương trình công tác năm 2022 và Kết luận tại phiên họp
thứ 21 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,
Kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác này, Bộ Chính trị đã giao cho Ban Nội chính Trung ương
chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan khẩn trương, nghiêm túc
nghiên cứu, xây dựng Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực.
Đề án có sự kế thừa kết quả sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 10-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW của Bộ Chính trị
khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện,
xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng; tổng kết công tác phòng, chống tham
nhũng giai đoạn 2013-2020; và xuất phát từ những yêu cầu đặt ra đối với
công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tình hình mới.
Ban Nội chính Trung ương đã tổ chức hội thảo lấy ý kiến góp ý của các
chuyên gia, các cán bộ có kinh nghiệm thực tiễn về phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực; gửi xin ý kiến các ban, bộ, ngành, địa phương và các
thành viên Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
để tiếp thu, hoàn thiện Đề án. Qua góp ý xây dựng Đề án, đã có tất cả
63/63 tỉnh ủy, thành ủy nhất trí với chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo
cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Đề án đã trình bày đầy đủ, đúng đắn, có cơ sở lý luận và thực tiễn về
sự cần thiết, căn cứ và nguyên tắc thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh; chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác của Ban Chỉ
đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, và cũng đã dự thảo
các văn bản liên quan. Đề nghị Trung ương nghiên cứu, xem xét, quyết
định về những kiến nghị, đề xuất nêu trong Tờ trình của Bộ Chính trị,
nhất là về chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực nhằm góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương công
tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta, theo tinh thần tôi đã nhiều lần nói là "Trên Dưới đồng lòng, Dọc
Ngang thông suốt!".
6. Về kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư năm 2021 gắn với thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII
về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
Thực hiện Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII, trong tháng 01 năm 2022, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã dành 3 ngày để tiến hành kiểm điểm, tự phê bình
và phê bình về sự lãnh đạo, chỉ đạo của tập thể và cá nhân từng đồng
chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021 gắn với việc thực hiện Kết
luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình lần này đã được thực hiện một
cách nghiêm túc, bài bản, theo quy chế, quy trình từng bước hợp lý. Các
báo cáo kiểm điểm đều được chuẩn bị theo đúng quy định, hướng dẫn.
Không khí kiểm điểm theo tinh thần tự phê bình, phê bình nghiêm túc,
thẳng thắn, dân chủ, đoàn kết, chân tình. Các đồng chí được góp ý đã
tiếp thu nghiêm túc, cầu thị, coi đây như là cơ hội quý để học tập, chia
sẻ lẫn nhau. Trong quá trình kiểm điểm, từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính
trị, Ban Bí thư đã liên hệ đến trách nhiệm cá nhân đối với lĩnh vực được
phân công, thấy rõ những ưu điểm để phát huy, nhận ra những khuyết
điểm, hạn chế để khắc phục.
Quang cảnh hội nghị. (Ảnh: TTXVN)
Qua kiểm điểm tập thể và cá nhân, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhận thấy:
Năm 2021, trong bối cảnh có rất nhiều khó khăn, thách thức, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư luôn luôn đoàn kết, thống nhất, bình tĩnh, kiên định,
sáng suốt trước khó khăn, thử thách, có nhiều đổi mới và sáng tạo, bám
sát quan điểm, chủ trương, đường lối, cụ thể hoá các nội dung quan trọng
của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đã có các quyết sách đúng đắn,
kịp thời và phù hợp với tình hình thực tiễn để lãnh đạo, chỉ đạo toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân tổ chức triển khai thực hiện, đạt được những
kết quả quan trọng, khá toàn diện, có những dấu ấn nổi bật, được cán
bộ, đảng viên và nhân dân ghi nhận, bạn bè thế giới đánh giá cao.
Tuy nhiên, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư
cũng còn một số hạn chế, khuyết điểm. Công tác dự báo chiến lược, hoạch
định đường lối, chính sách và tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có
lúc, có việc chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới.
Trong phòng, chống dịch bệnh có lúc, có nơi còn lơ là, chủ quan, bị
động, lúng túng hoặc cứng nhắc, thiếu thống nhất, đồng bộ trong lãnh
đạo, chỉ đạo xử lý các tình huống cụ thể, đột xuất; còn có những hạn
chế, bất cập trong nghiên cứu, dự báo, phân tích tình hình để xây dựng
và triển khai thực hiện có bài bản và kịp thời các phương án ngắn hạn
cũng như dài hạn, bảo đảm vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển
kinh tế-xã hội, bảo đảm các hoạt động bình thường.
Những kết quả, thành tích cũng như hạn chế, yếu kém cụ thể đã được
nêu đầy đủ trong Báo cáo của Bộ Chính trị gửi các đồng chí Uỷ viên Trung
ương Đảng. Đề nghị Trung ương với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, xem xét, đánh giá kỹ lưỡng những ưu điểm, những
hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư gắn với thực hiện Kết luận Trung ương 4 khóa XIII trên các lĩnh vực.
Đặc biệt, cần chỉ rõ những nguyên nhân, rút ra những bài học kinh
nghiệm và đề ra các giải pháp tích cực khắc phục trong thời gian tới.
Thưa các đồng chí,
Những nội dung trình Hội nghị Trung ương lần này là những vấn đề rất
lớn, rất khó và rất hệ trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng trên các lĩnh vực trọng yếu như: Đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ngày càng
trong sạch, vững mạnh toàn diện từ gốc, từ cơ sở, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của cách mạng trong giai đoạn mới;... Đề nghị Trung ương phát
huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận kỹ
lưỡng, cho ý kiến để hoàn thiện và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Chúc Hội nghị của chúng ta thành
công tốt đẹp!
Tôi xin trân trọng cảm ơn!"./.
TTXVN