Xét dư địa, triển vọng về mặt cung và về mặt cầu của nền kinh tế, vẫn
hoàn toàn có khả năng đạt tăng trưởng ở mức cao nhất trong các dự báo.
Năm 2016, tăng trưởng GDP của Việt Nam
đạt 6,21% và lạm phát 4,74%. Kế hoạch năm 2017, Quốc hội dự kiến tăng
trưởng 6,7% và lạm phát dưới 4%.
Đây là nhiệm vụ khó khăn, xét trong bối
cảnh việc cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng còn rất
nhiều việc phải làm, thị trường thế giới và chính sách của các nước biến
động nhanh.
Các dự báo của các tổ chức tài chính
quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á hay Quỹ Tiền
tệ quốc tế và cả các tổ chức nghiên cứu trong nước lạc quan với chính
sách rõ ràng của Chính phủ, khởi sắc của môi trường đầu tư kinh doanh,
với số đăng ký doanh nghiệp tăng vọt... cũng đều đưa ra dự báo tăng
trưởng cả năm khoảng 6-6,5%.
Tình hình thực tế trong 4 tháng qua cho
thấy các dự báo không cao như trên là có cơ sở nhất định. Những tháng
đầu năm tăng trưởng GDP đạt thấp, chỉ 5,1% trong ba tháng đầu năm, thậm
chí có ngành bị sụt giảm lớn như công nghiệp khai khoáng. Điều này đặt
gánh nặng cho các tháng còn lại của năm 2017.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng vẫn hoàn
toàn có khả năng đạt tăng trưởng ở mức cao nhất trong các dự báo. Bởi
vẫn còn nhiều dư địa của các tiềm năng chưa được khai thác hết, nhất là
các đột phá về thể chế và đổi mới phương thức điều hành kinh tế.
Chúng ta hãy điểm lại triển vọng trong
các ngành sản xuất nông, công nghiệp và dịch vụ (xét về mặt cung) và về
tiêu dùng, đầu tư (xét về mặt cầu) của nền kinh tế.
Khai thác các tiềm năng về mặt cung
Nông lâm ngư nghiệp quý I/2017 đã
tăng trưởng đạt 1,98% về giá trị sản xuất và 2,03% về giá trị gia tăng,
cao hơn mức suy giảm -1,31% quý I năm 2016, nhưng thấp hơn tốc độ các
năm 2014, 2015. Điều này cho thấy nông nghiệp đang khôi phục trong khó
khăn, dù thời tiết đã khá thuận lợi.
Những tín hiệu tích cực trong sản xuất,
tiêu dùng và xuất khẩu rau quả vừa qua cho thấy, có nhiều tiềm năng cho
phát triển nông nghiệp chất lượng cao, gắn với thị trường trong và ngoài
nước. Thủy sản sau sự cố môi trường 4 tỉnh Miền Trung có nhiều khả năng
phát triển mạnh hơn nữa.
Với các chính sách mới trong nông
nghiệp, nhất là nới rộng hạn điền và chuyển dịch cơ cấu cây trồng, hướng
phát triển nông nghiệp vào các lĩnh vực có hiệu quả, năng suất cao ngày
một rõ nét hơn.
Dịch vụ có bước phát triển khá,
vượt tốc độ quý I năm 2015 và 2016. Thương mại (bán buôn, bán lẻ của nội
thương và xuất nhập khẩu) đã có sự phát triển, tăng ở mức 6,2% và tháng
4 tăng lên 6,7%, dù chưa khôi phục mức 7,8% của 4 tháng đầu năm 2016
nhưng đang lấy lại đà tăng trưởng khi xuất nhập khẩu tiếp tục được đẩy
mạnh.
Xuất khẩu tăng hơn 15,4%, trong đó xuất
khẩu từ các doanh nghiệp trong nước cũng tăng đến hơn 13,7%. Nhập khẩu
tăng gần 25% do nhu cầu thị trường được nâng cao, với chỉ số Nhà quản
trị Mua hàng (PMI) lĩnh vực sản xuất Việt Nam của Nikkei đã tăng từ mức
54,2 điểm của tháng 2 lên 54,6 điểm trong tháng 3. Thị trường trong nước
đang ngày càng cải thiện, với tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tăng gần
10% trong 4 tháng đầu năm.
Hoạt động du lịch được đẩy mạnh dựa vào
các ngành kinh tế làm bệ đỡ như vận tải, lưu trú (doanh thu lữ hành tăng
hơn 6% so cùng kỳ) và ăn uống (tăng hơn 11%). Kết quả là khách quốc tế
tăng đến hơn 30%, mỗi tháng cả nước đón hơn 1 triệu du khách quốc tế,
trong khi khách nội địa ngày càng tăng.
Lĩnh vực đáng quan ngại nhất lúc này là sản xuất công nghiệp.
Tình hình tháng 4 vẫn còn khó khăn dù nhìn chung các ngành công nghiệp
đã có bước tăng trưởng cao hơn ba tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu
năm 2017, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 5,1% so với cùng
kỳ năm trước, tuy cao hơn mức tăng 4,2% của quý I năm nay, nhưng thấp
hơn nhiều mức tăng 7,3% của cùng kỳ năm 2016. Cần phân tích sâu trong
từng phân ngành, từng sản phẩm, từng thị trường để tìm cách phát huy các
tiềm năng, lợi thế.
Mức tăng thấp của chỉ số sản xuất công
nghiệp IIP (tăng 5,1%) và công nghiệp chế biến chế tạo (tăng 9,2%) trong
4 tháng qua đã không bù đắp được sự giảm sút của phân ngành công nghiệp
khai khoáng (giảm 9,7%). Tiềm năng phát triển của ngành chế biến chế
tạo còn lớn khi cả năm 2016 ngành này tăng trưởng đến 11,9% nên đã bù
được sự giảm sút (-4%) của ngành khai khoáng. Nên chăng, cần có biện
pháp cấp bách khôi phục sản xuất ngành khai khoáng một cách bền vững,
trong khi các ngành công nghiệp chế tạo đang có điều chỉnh theo hướng
tích cực.
Hơn thế, tính chung 3 tháng đầu năm nay,
chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo tăng 7,5% so với cùng kỳ năm
trước, nhưng vẫn thấp hơn hẳn mức tăng cùng kỳ năm 2016 là 10,2%.
Đáng lo ngại là một khi tiêu thụ kém thì
tồn kho cũng tăng. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo thời điểm 01/4/2017 tăng 12,7% so với cùng thời điểm năm 2016 (cùng
kỳ năm trước chỉ tăng 8,9%). Hệ quả là, tỷ lệ tồn kho bình quân toàn
ngành chế biến, chế tạo 3 tháng đầu năm là 71,9%, cho thấy sự gắn kết
sản xuất và thị trường của lĩnh vực này còn yếu kém.
Khai thác tiềm năng về mặt cầu
Có hai chỉ tiêu quan trọng (đầu tư và tiêu dùng) cần xem xét đánh giá để khai thác mạnh mẽ tiềm năng tăng trưởng.
Về đầu tư, theo đánh giá chung,
tổng mức đầu tư cả nước còn khó khăn do việc giải ngân vốn Nhà nước còn
thấp, trong 4 tháng mới đạt 22% kế hoạch năm và chỉ tăng 3,6% so cùng kỳ
năm 2016.
Do đó, cùng với đẩy mạnh đầu tư công khi
đã bố trí tốt hơn trong kế hoạch đầu tư trung hạn, cần tiến hành các
biện pháp để tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển
doanh nghiệp, nhất là cải cách doanh nghiệp nhà nước và thúc đẩy kinh
tế tư nhân.
Tiềm năng trong lĩnh vực đầu tư còn
nhiều. Cụ thể, năm 2016 tổng vốn tăng 8,7%, trong đó khu vực tư nhân
tăng 9,7% và khu vực doanh nghiệp FDI tăng 9,4% là các điểm đột phá, khi
số đăng ký kinh doanh và cam kết vốn của hai lĩnh vực tư nhân trong và
ngoài nước (chiếm hơn 62% tổng số vốn toàn xã hội) đều tăng cao hơn mức
bình quân.
Năm 2016 tổng doanh nghiệp đăng ký vượt
110 nghìn doanh nghiệp, trong khi 4 tháng đầu năm nay đã có 39.580 doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 369,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 14% về số doanh nghiệp và tăng 48,9% về số vốn đăng ký so với
cùng kỳ năm 2016. Tuy nhiên, để số lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng
đi với chất lượng cao, cần giảm dần số doanh nghiệp phải thu hẹp sản
xuất hoặc đóng cửa dưới nhiều hình thức.
Yếu tố khác liên quan đến tổng cầu cuối cùng là tiêu dùng cuối cùng (không
kể tiêu dùng cho chi phí sản xuất kinh doanh) của cả khu vực công và
tư. Với chính sách tiết kiệm chi tiêu công thì tiêu dùng tư nhân sẽ trở
thành nhân tố quan trọng nhất, tạo ra sức cầu cho nền kinh tế (cầu nội
địa).
Để tạo điều kiện tăng cầu thì một mặt
tăng trưởng kinh tế có tốc độ cao sẽ là tiền đề để tăng thu nhập, tạo ra
khả năng thanh toán của cư dân. Đồng thời cũng cần kiềm chế lạm phát,
tránh những điều chỉnh giá do Nhà nước quan lý gây "giật cục", ảnh hưởng
tới tâm lý và sức mua thực tế của người dân.
Phát triển du lịch, cải thiện điều kiện
nhà ở, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng… cũng là những hướng để tăng
sức cầu cho nền kinh tế từ nội lực. Thêm vào đó, cần có chính sách vững
bền để đẩy mạnh xuất khẩu và tăng nhập khẩu hợp lý, hạn chế nhập khẩu
quá mức…
Hy vọng rằng với chính sách tích cực của
Chính phủ, điều hành căn cơ từ cả hai phía cung và cầu, được cả hệ
thống chính trị, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và người dân hưởng
ứng, chúng ta sẽ nâng cao hơn năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế./.
Nguyễn Quang Thái
GS.TSKH, chuyên gia kinh tế