Lịch sử chiến tranh thế giới chứng minh chưa có Thủ đô nào như Hà Nội,
giữ được chiến lũy của mình trong 2 tháng khi tương quan lực lượng quá
chênh lệch.
Nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn
Trân đã có cuộc trò chuyện rất thú vị với phóng viên Báo điện tử Chính
phủ về những ngày Hà Nội mùa đông cách đây vừa tròn 7 thập kỷ ấy.
Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Ông Nguyễn Văn
Trân được Trung ương và Bác Hồ điều về làm Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch
Ủy ban kháng chiến Hà Nội. Nhớ lại những ngày Hà Nội đang chuẩn bị
kháng chiến, ông Trân kể: “Có lần Bác Hồ gọi tôi ra báo cáo công việc
vào một buổi sáng tôi đang gặp đồng chí Tư lệnh Vương Thừa Vũ để trao
đổi kế hoạch tác chiến. Tôi vội bỏ dở cuộc trao đổi để sang biệt thự Cây
Liễu (nhà của bà Tống Minh Phương, một cơ sở cách mạng của ta, ở gần
Nhà máy Cơ khí Hà Nội bây giờ). Đến nơi đã thấy đồng chí Võ Nguyên Giáp,
đồng chí Hoàng Văn Thái và đồng chí Trường Chinh ở đó. Các đồng chí nói
Bác Hồ cho gọi tôi đến để báo cáo tình hình chuẩn bị của Hà Nội.
Bác Hồ nhìn thấy tôi là hỏi ngay: “Các chú thấy tình hình quân Pháp
thế nào? Nếu nổ ra chiến tranh liệu chúng ta có thể giữ được bao lâu?”.
Bác nói tiếp: “Phải cố giữ một thời gian để có thì giờ các tỉnh tổ
chức và động viên quần chúng có kế hoạch đi vào cuộc kháng chiến”.
Mọi người chưa ai kịp nói gì. Bác đặt luôn câu hỏi: “Liệu có giữ Hà Nội được một tháng không?”.
Đồng chí Hoàng Văn Thái là Tổng tham mưu đã bàn bạc với Ban chỉ huy
Mặt trận Hà Nội và chính đồng chí đã đi kiểm tra, xem xét các khu phố,
gặp bộ đội, tự vệ, dân quân và dân chúng. Đồng chí cũng đã nêu vấn đề:
Để chiến đấu từng khu phố, từng căn nhà cần phải tổ chức giao thông liên
lạc chặt chẽ giữa các lực lượng chiến đấu, phải đục tường liên thông
giữa các nhà trong các phố để khi tác chiến có thể di chuyển lực lượng
nhanh chóng và kín đáo. Ý kiến này đã được toàn thể cán bộ và nhân dân
Hà Nội hoan nghênh và thực hiện.
Sau khi trao đổi ý kiến, Bác đặt ra phải cố giữ Hà Nội một tháng. Đại
tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Nguyễn Văn Trân đều đồng ý để đồng chí
Hoàng Văn Thái báo cáo với Bác là: Căn cứ tinh thần hăng hái quyết
chiến của quân dân Thủ đô và tình hình thực tế chuẩn bị, xin hứa với Bác
là chúng ta có thể giữ Thủ đô được một tháng. Bác đã vui vẻ động viên
các đồng chí: “Dựa vào lực lượng nhân dân thì các chú có thể làm tốt”.
|
Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón
đánh xe tăng Pháp trong những ngày đầu
toàn quốc kháng chiến với tinh
thần “Quyết tử để tổ quốc quyết sinh", năm 1946. Ảnh tư liệu
|
Trong đánh, ngoài vây
Sau cuộc gặp đó, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Trân đã về
họp ngay Ủy ban kháng chiến và Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội cùng cán bộ
chủ chốt các liên khu để bàn cụ thể kế hoạch tác chiến.
Từ ngày 30/6/1946, Hà Nội đã bầu cử Hội đồng Nhân dân, nội thành được
chia làm 17 khu phố - được chia thành ba liên khu I, II, III.
Tại cuộc họp bàn kế hoạch tác chiến, đồng chí Vương Thừa Vũ, Tư lệnh
Thủ đô trình bày kế hoạch “trùng độc chiến” nghĩa là “trong đánh, ngoài
vây”. Trong nội thành, ba Liên khu phối hợp đánh vào các căn cứ của
địch. Ngoại thành chia là năm khu, từ bắc xuống nam, là vòng vây phía
ngoài.
Trong nội thành, mỗi phố đều làm công sự bằng mọi vật liệu sẵn có:
Ngả cây và cột điện, đắp công sự bằng bàn, ghế, tủ, giường, đào giao
thông hào ngang đường…
Trận Ô Cầu Dền là công sự của tự vệ Liên khu II trấn giữ cửa ô không
cho địch đánh chiếm, ta giữ nhiều ngày, địch bị thiệt hại, chúng không
phá được công sự này.
Còn một số trận khác cũng ác liệt không kém như trận chợ Đồng Xuân,
trận nhà dầu xăng Khâm Thiên, trận Giảng Võ, trận nhà Delevo phố Hàng
Bột, trận Viện Pasteur… Những trận tranh chấp từng ngôi nhà ở phố Hàng
Bông, Hàng Gai, Hàng Thiếc, Hàng Đậu, mỗi bên chiếm giữ nửa phố, có thể
trông thấy nhau. Đến buổi tối là các tổ nữ địch vận thường tuyên truyền,
đọc thơ, ca hát cho lính địch nghe, gây cho chúng nhớ nhà, nhớ quê
hương để phản chiến đòi về nước.
Liên khu I có ba tiểu đoàn, gồm bộ đội giải phóng làm nòng cốt, còn
có tự vệ khu phố, công an vũ trang. Ba liên khu là ba chốt thép vây hãm
lực lượng địch trong Thành phố. Qua một tháng địch vẫn không ra khỏi năm
cửa ô. Đường tiếp tế từ ngoại thành vào nội thành vẫn bảo đảm cung cấp
lương thực, thực phẩm cho bộ đội, tuy mỗi lúc có khó khăn hơn.
Ăn Tết giữa cuộc chiến
Tết cổ truyền năm 1947, ta tổ chức cho anh em ăn Tết. Nhân dịp này,
để chứng tỏ ta vẫn sẵn sàng chiến đấu, ta mời lãnh sự các nước Mỹ, Anh,
Trung Quốc vào dự lễ. Hôm đó ta tổ chức rất đàng hoàng, có cành đào, hoa
tết. Tiệc có rượu Tây, có bánh chưng, hoa quả và các món ăn dân tộc.
Trong bữa tiệc, lãnh sự Mỹ đứng lên chúc rượu và khen ngợi ta tổ chức
rất giỏi, chúc ta kiên trì giành chiến thắng.
Ta có nhận định, các lãnh sự đến là để dò la tình tình hình của ta.
Ta cũng có kế hoạch chọn địa điểm thích hợp, đàng hoàng, nhưng đề phòng
địch sẽ ném bom. Quả nhiên sau mấy ngày, lãnh sự Trung Quốc lại thử
thách ta, đề nghị ta giúp đỡ lương thực cho Hoa kiều còn bị kẹt trong
Thành phố. Ta cân nhắc, nếu không giúp chắc địch sẽ cho là ta kiệt quệ
rồi, nên đồng ý giúp cho một số lương thực để thấy ta vẫn đủ sức chiến
đấu.
Tiếp theo lãnh sự Trung Quốc lại đề nghị ta cho phép Hoa kiều được
rút ra ngoài Thành phố. Việc này cũng có nghĩa là ở khu trung tâm nếu
Hoa kiều rút đi thì giặc Pháp phản đối. Ta trả lời Trung Quốc rằng:
Chúng tôi đồng ý để Hoa kiều rút ra ngoài Thành phố, nhưng còn quân đội
Pháp có đồng ý không?
Lãnh sự Trung Quốc nói sẽ liên lạc với Pháp để hai bên đình chiến một
ngày cho Hoa kiều rút đi. Lãnh sự Trung Quốc đề nghị có cuộc họp hai
bên để quyết định cụ thể. Vì thế, sáng ngày 12/2/1947 đã diễn ra cuộc
họp giữa ta và các lãnh sự Mỹ, Anh (đại diện cho Pháp) và Trung Quốc, kê
ghế ngay trên vỉa hè họp tại ngã tư Ô Chợ Dừa.
Cuộc họp kéo dài trong một buổi sáng và quyết định hai bên sẽ ngừng
bắn ngày 15/2/1947. Trên đường đi của Hoa kiều, bộ đội Việt Nam và Pháp
sẽ làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn.
Cuộc rút lui đặc biệt
Cuộc chiến đấu được hai tháng. Liên khu I đã tổ chức thành lập được
Trung đoàn Thủ đô. Tình hình bắt đầu có nhiều khó khăn, việc tiếp tế ở
ngoài vào bị nhiều cản trở do địch đã tiến vào một số đường phố. Cấp
trên xem xét tình hình và có chỉ thị cho Ủy ban kháng chiến Thủ đô và
Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội có thể rút quân ra để bảo toàn lực lượng.
Nhận được lệnh, Ủy ban kháng chiến Thủ đô và Ban Chỉ huy Mặt trận Hà
Nội bố trí kế hoạch cho Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Liên khu I đêm
17/2/1947.
Mặc dù chủ trương rút lực lượng ra ngoài đã phổ biến trước nhưng
nhiều anh em các đơn vị tìm cách trốn lại để được tiếp tục chiến đấu. Để
đánh lạc hướng địch, ngay tối 17/2/1947, cả ba Liên khu đều tổ chức một
số đơn vị tiến công địch để phô trương thanh thế.
Cuộc rút lui diễn ra an toàn, đem theo tất cả thương binh và vũ khí.
Sáng hôm sau, địch phát hiện cho lực lượng cả bộ binh và cano đuổi theo.
Nhưng Trung đoàn Thủ đô đã sang sông an toàn. Bộ đội ta đã chặn địch và
chiến đấu oanh liệt, nhiều đồng chí hy sinh.
Ngày 19/2/1947, sau khi rút ra khỏi Liên khu I, quân ta đi theo đê
phía Đông Anh ngược lên trên rồi lại sang sông trở về bên hữu ngạn, còn
Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội tập kết ở xã Thượng Hội, huyện Đan Phượng.
Tại đó đã có cuộc mít tinh đón Trung đoàn Thủ đô, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng Võ Nguyên Giáp và Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội đón mừng Trung đoàn.
Tại mít tinh, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố: Chính phủ đã nhận
được báo cáo đầy đủ của Trung đoàn, Bác Hồ có thư khen quân dân Hà Nội
đã giữ được Thủ đô một tháng là thắng lợi, được hai tháng là đại thắng
lợi.
Nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Trân nhận định, chủ động tạo
bất ngờ là những yếu tố giành thắng lợi trong chiến tranh và chiến đấu.
Thông thường chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thường diễn ra từ biên giới có
kế hoạch chủ động chuẩn bị chiến đấu, ngược lại, với ta đã diễn ra tại
Thủ đô trung tâm đất nước với tương quan lực lượng quá chênh lệch, thiếu
thời gian chuẩn bị. Lịch sử chiến tranh thế giới chứng minh chưa có Thủ
đô nào giữ được 2 tháng với tương quan lực lượng quá chênh lệch như
vậy.
Nhiệm vụ giữ Thủ đô càng lâu càng tốt mà cấp trên trao cho quân và
dân Hà Nội không buộc chúng ta phải cố thủ. Cuộc rút lui bảo toàn lực
lượng của Trung đoàn Thủ đô theo lệnh của Bộ tổng chỉ huy là một thành
công lớn của quân và dân Hà Nội, một minh chứng về sự phát triển nghệ
thuật quân sự Việt Nam ở thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp./.
Theo chinhphu.vn