NGHỊ ĐỊNH 09 - MỘT CHÍNH SÁCH NHÂN VĂN
Trong nhiều thập niên qua, Việt Nam đã đạt được đáng kể về thành tựu cải thiện tình trạng dinh dưỡng. Theo đó, người Việt Nam đã được nâng cao về tầm vóc, trí tuệ và tuổi thọ, trở thành điểm sáng về thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, trên thực tế, “chênh lệch chỉ số sức khoẻ giữa các vùng, miền còn lớn. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi còn cao. Tầm vóc người Việt Nam chậm được cải thiện. Số năm sống khỏe chưa tăng tương ứng với tuổi thọ”[2]. Trong đó, một số bệnh liên quan đến thiếu VCDD tái tăng cao. Đặc biệt, từ sau khi Chính phủ tuyên bố “Việt Nam cơ bản hoàn thành Chương trình quốc gia về về phòng chống các chứng bệnh do thiếu i-ốt vào năm 2005” khi đã đạt được mục tiêu đề ra. Theo Báo cáo của Viện Dinh dưỡng, Bộ Y tế, chỉ 10 năm sau (2015), Mạng lưới i-ốt toàn cầu đã xếp Việt Nam là 1 trong 19 quốc gia có tình trạng thiếu i-ốt trầm trọng nhất trên thế giới. WHO cũng xếp Việt Nam vào danh sách 19 nước có tình trạng thiếu vitamin A tiền lâm sàng mức nặng (trên 10% trẻ dưới 5 tuổi). Ngoài ra, một số VCDD khác cũng đang bị thiếu hụt gây ảnh hưởng đến sức khỏe, như: Axit folic, Vi tain D, B1, K,... ở mức “đáng báo động”.
Tọa đàm: “Thúc đẩy thực thi Nghị định 09/2016/NĐ-CP của Chính phủ vì sức khỏe và tầm vóc Việt” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Câu lạc bộ Cựu đại biểu Quốc hội tổ chức ngày 26/2 tại Hà Nội. Trong ảnh: TSKH. Nghiêm VŨ Khải, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội đọc phát biểu đề dẫn. Ảnh TL.
|
Theo điều tra dịch tễ của Bệnh viện Nội tiết Trung ương, sự thiếu hụt i-ốt trong các tầng lớp dân cư đã làm tăng các căn bệnh liên quan khoảng 30-35%, gần với mức trước năm 1995 (khoảng 38%), tăng trên - dưới 5 lần so với năm 2005 (6-8%). Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tính chung cả nước được xác định là ở mức cao (24,6%). Trẻ em thiếu vitamin A tiền lâm sàng là 13%, thiếu máu 27,8%, và thiếu kẽm trầm trọng 69,4%. Ở phụ nữ có thai: Thiếu máu là 32.8%, thiếu kẽm tới 82,5% (tương tự ở phụ nữ không có thai là: 24% và 60,7%).
Từ thực tế trên, đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với ngành Y tế và xã hội. Đó cũng là lý do Chính phủ ban hành Nghị định số 09, nhằm giải quyết tình trạng thiếu các vi chất phổ biến trong cộng đồng, trước hết là i-ốt, sắt, kẽm và vitamin A.
Nghị định 09 có hiệu lực thi hành từ ngày 15-3-2016 và lộ trình bắt buộc áp dụng sau 1 năm đối với muối tăng cường i-ốt (muối i-ốt) và 2 năm đối với dầu ăn tăng cường vitamin A (dầu ăn vitamin A) và bột mỳ tăng cường sắt, kẽm (bột mỳ sắt, kẽm). Đây cũng là nền tảng để Chính phủ ban hành Nghị định 40/2017/NĐ-CP, quy định: “Muối thực phẩm là muối được bổ sung tăng cường vi chất i-ốt dùng để ăn trực tiếp và dùng trong chế biến thực phẩm”.
Nghị định 09 được coi là một chính sách nhân văn với những giải pháp tích cực nhằm khắc phục kịp thời các thiếu xót trong chính sách vĩ mô về tăng cường VCDD nâng cao tầm vóc Việt. Với nhiều ưu điểm vượt trội, dễ sản xuất và dễ sử dụng, giá thành chi phí thấp (chỉ 0,06 USD người/năm) so với các giải pháp cơ bản khác, như: Đa dạng hóa bữa ăn, hay bằng đường uống/tiêm (tương ứng là: 1.148 USD và 11,4 USD người/ năm). Tính chung ở Việt Nam, tăng cường VCDD vào thực phẩm chi phí khoảng 3 triệu USD/năm. Đây là con số rất thấp so với chi phí cho điều trị y tế và những chi phí khác do thiếu vitamin A, sắt, kẽm, i-ốt gây ra, có thể mất tới 648 triệu USD/năm, kèm theo là những hệ lụy khôn lường của một xã hội “thiếu sức khỏe” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu”[3].
Nghị định 09 do đó thực sự là một giải pháp trung hạn không thể thiếu trong nhiều giải pháp song hành, đã được khuyến nghị và thực hành quốc tế có hiệu quả về mặt chi phí, tầm tác động và tính bền vững, góp phần tạo ra một lực lượng dân số khoẻ mạnh và thông minh đóng góp nhiều lợi ích cho xã hội và sự phát triển của đất nước, bao gồm cả phát triển năng lực cạnh tranh mà nhiều quốc gia đã thực hiện.
Hiện có 108 quốc gia trên thế giới bắt buộc bổ sung i-ốt vào muối, 98 quốc gia yêu cầu sử dụng muối i-ốt để chế biến thực phẩm, 85 quốc gia yêu cầu bổ sung sắt, kẽm vào bột mỳ, 29 quốc gia yêu cầu bổ sung vitamin A vào dầu ăn. Các tổ chức quốc tế như WHO, UNICEF, FAO, nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực dinh dưỡng của nước ta (GS Hà Huy Khôi, GS Nguyễn Công Khẩn, GS Lê Thị Hợp…) đều có kiến nghị thúc đẩy thực hiện Nghị định số 09. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Văn phòng Chính phủ có thư cảm ơn các nhà khoa học về việc này.
Nguồn: Báo cáo của Viện Dinh dưỡng, Bộ Y tế
|
THỰC THI NGHỊ ĐỊNH 09 VÀ VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG
Từ khi Nghị định 09 có hiệu lực thi hành, công tác tuyên truyền cũng được triển khai, góp phần làm thay đổi nhận thức và hành vi của các nhóm đối tượng được điều chỉnh về tăng cường VCDD vào thực phẩm. Bước đầu đã cải thiện một phần thiếu hụt các VCDD trong bữa ăn hàng ngày của người dân. Trong các Hội thảo, tọa đàm bàn tròn và trực tuyến gần đây, các cơ quan chức năng của Bộ Y tế và các nhà khoa học, các chuyên gia dinh dưỡng, chuyên gia y tế về các bệnh liên quan đến thiếu vi chất… đều khẳng định: Nghị định 09 là một văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn và đòi hỏi bức bách liên quan đến sức khỏe cộng đồng.
Tuy nhiên, ngay từ khi Nghị định 09 sắp có hiệu lực, một số hiệp hội và doanh nghiệp, liên tục có ý kiến phản ánh những bất cập ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiêp và chất lượng sản phẩm. Trong đó, tập trung ở một số điểm: Một là, làm tăng chi phí sản xuất, do giá thành thực phẩm tăng cường vi chất tăng. Hai là, phải đầu tư thay đổi công nghệ, gây khó khăn và nâng giá thành sản xuất. Ba là, i-ốt được tăng cường làm thay đổi cảm quan người dùng đối với thực phẩm chế biến, bị bay hơi trong quá trình chế biến và không có tác dụng tăng cường sức khỏe, ảnh hưởng việc đến xuất khẩu thực phẩm. Bốn là, các doanh nghiệp sẽ “bị” kiểm tra bởi cơ quan chức năng.
Trước những ý kiến như vậy, đã tác động không nhỏ đến các doanh nghiệp trong việc thực thi Nghị định. Việc tăng cường VCDD vào thực phẩm trở nên thiếu thống nhất, thậm chí có nhiều cơ sở sản xuất không thực hiện vì lý do cạnh tranh về giá thành, giá bán, ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Tình trạng đó, làm cho độ bao phủ của thực phẩm tăng cường vi chất không những không được nâng lên mà còn bị suy giảm đáng lo ngại.Đơn cử một nghiên cứu mới đây của Viện Dinh dưỡng quốc gia về thực phẩm muối i-ốt cho thấy: Chỉ 6% số người được hỏi dùng duy nhất gia vị mặn là muối i-ốt; còn lại người dân sử dụng gia vị mặn từ các sản phẩm chế biến có muối như nước mắm, nước tương, bột canh không có i-ốt… Ngay tại Hà Nội, độ bao phủ của muối iốt cũng chỉ còn gần 30%.Các bệnh do thiếu vi chất do đó lại vẫn tiếp tục gia tăng.
Tại các cuộc đối thoại trực tiếp giữa Chính phủ và các cơ quan Chính phủ với các hiệp hội, doanh nghiệp, Bộ Y tế đã có đủ bằng chứng khoa học, khẳng định việc tăng cường VCDD vào thực phẩm không ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sản xuất. Bộ cũng nhiều lần có văn bản giải thích về việc không kiểm tra đối với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến thực phẩm theo đúng quy định tại Nghị định, nhưng đến nay vẫn chưa tạo được sự thống nhất từ phía các hội, hiệp hội và doanh nghiệp. Việc thực thi Nghị định vẫn đang “có nhiều trở ngại”. Trong khi, các doanh nghiệp, hiệp hội vẫn không đưa ra được bằng chứng khoa học hay thực tiễn về những bất cập trong sản xuất do tăng cường VCDD vào thực phẩm.
Trên thực tế, việc tăng cường vi chất chỉ làm tăng chi phí đối với doanh nghiệp khoảng 50.000 - 200.000 đồng/tấn muối (giá muối i-ốt hiện từ 2,8-3 triệu đồng/tấn); tăng từ 35.000 - 70.000 đồng/tấn đối với bột mỳ (giá bột mỳ sắt, kẽm hiện khoảng 9 triệu đồng/tấn; tăng 100 đồng/lít dầu ăn (giá dầu ăn từ 20.000 đồng - 50.000 đồng/lít). Các doanh nghiệp đều không gặp khó khăn về công nghệ, nếu có phát sinh chi phí thì cũng được tính vào giá thành sản phẩm theo cơ chế thị trường. Việc sử dụng thực phẩm được tăng cường vi chất không làm thay đổi cảm quan, chất lượng thực phẩm được chế biến và lượng vi chất vẫn tồn tại sau chê biến có tác dụng tốt cho sức khỏe, lợi ích rõ rệt cho người tiêu dùng.
Theo:Báo cáo đánh giá của Bộ Y tế năm 2019
|
Như vậy, cho dù có tăng chi phí nhưng là mức chi phí rất nhỏ so với lợi ích tổng thể của toàn xã hội. Doanh nghiệp và người tiêu dùng đều chấp nhận được, nhất là người tiêu dùng được thụ hưởng sản phẩm có nhiều lợi ích cho sức khỏe, nhà nước ít phải chi phí y tế. Việc thúc đẩy thực thi Nghị định 09 do đó là yêu cầu khách quan, khoa học cần được triển khai thực hiện công bằng, minh bạch.
Những hạn chế trong quá trình triển khai Nghị định, có nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chính. Bên cạnh các chế tài bắt buộc chưa được thực hiện nghiêm túc, vai trò tuyên truyền (bao gồm cả thông tin, giáo dục và truyền thông) trên cả ba phương diện: Nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm với cộng đồng và nghĩa vụ thực thi pháp luật của người dân đều chưa được phát huy và còn bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập. Bộ Y tế cũng thừa nhận, đây là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến sự trì trệ trong quá trình thực thi Nghị định. Bộ này cũng cho biết, trong thời gian tới, một chương trình giáo dục, truyền thông mở rộng sẽ được triển khai đồng bộ, đảm bảo cao nhất cho việc thúc đẩy thực thi Nghị định vì sức khỏe cộng đồng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, truyền thông được coi trọng sẽ làm cho thông tin minh bạch, giúp cơ quan quản lý, thực thi chính sách tốt hơn; đồng thời, động viên, khích lệ việc làm tốt cũng như hạn chế sự lẩn tránh, hay tìm cách “lách luật” của các doanh nghiệp gây nên tổn thất cho con người và xã hội.
ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TUYÊN TRUYỀN
Để Nghị định 09 tiếp tục được thực thi có hiệu quả, công tác tuyên truyền cần phải đổi mới đồng bộ, toàn diện và có chiều sâu. Trong đó, cần chú trọng một số nội dung sau:
Một là, tăng cường đổi mới nội dung và phương thức tuyên truyềnnhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc thực thi Nghị định 09.Trước hết, giúp cho các nhóm đối tượng nhận thức rõ tác dụng của VCDD và tác hại nghiêm trọng của thiếu VCDD đối với sức khỏe cộng đồng; theo đó, nhận thức rõ tình trạng thiếu hụt vi chất hiện nay để có giải pháp đúng đắn trong việc thực thi các quy định của Nghị định.
Việc tuyên truyền phải đồng bộ, thường xuyên và có chiều sâu từ Trung ương đến địa phương. Tuyên truyền bằng đa dạng các hình thức, như trên các phương tiện thông tin đại chúng; lồng ghép trong giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục; thông qua hoạt động văn hóa, sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt của các đoàn thể, tổ chức xã hội và các loại hình văn hoá quần chúng khác; thông qua điểm hỏi đáp tại các bộ quản lý ngành,...Trên cơ sở phạm vi bao quát về nội dung,phải đảm bảo tính chính xác, tính cập nhật và tần số sử dụng thông tinphù hợp với từng loại đối tượng; phù hợp với truyền thống văn hoá, đạo đức xã hội, phong tục tập quán của từng vùng miền. Trong đó, quan trọng nhất là nội dung bao quát, thứ đến là tính chính xác, kịp thời, tạo những điểm nhấn dễ hiểu, dễ tiếp thu và dễ thực hiện.Việt Nam đã có nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác tuyên truyền thực hiện chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch bệnh, thực hiện các Chương trình quốc gia về phòng chống các chứng bệnh do thiếu iot từ năm 1995-2005,… được Tổ chức Y tế thế giới đánh giá cao, cần được phát huy trong thực hiện Nghị định 09.
|