Ngày 26/12 tới, Việt Nam và Campuchia sẽ tổ chức Lễ khánh thành hai cột
mốc 30 và 275 trên biên giới đất liền hai nước. Thủ tướng Chính phủ Việt
Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Hun Sen
sẽ tham dự buổi lễ và cắt băng khánh thành.
Nhân dịp này, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia Nguyễn Anh Dũng đã
trả lời phỏng vấn của TTXVN về ý nghĩa của sự kiện quan trọng,
những chủ trương, giải pháp để sớm hoàn thành việc phân giới, cắm mốc
trên toàn tuyến biên giới Việt Nam-Campuchia.
- Xin ông cho biết chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong việc
giải quyết các vấn đề biên giới với các nước láng giềng, trong đó có
việc phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia?
Ông Nguyễn Anh Dũng: Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà
nước ta trong việc giải quyết các vấn đề biên giới với các nước láng
giềng là thông qua thương lượng và các biện pháp hòa bình khác, phù hợp
với luật pháp quốc tế, trong đó có Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước
Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982; không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực. Việc giải quyết các vấn đề biên giới với Campuchia cũng không
phải là ngoại lệ.
- Đề nghị ông cho biết những cơ sở pháp lý và thành tựu của quá
trình phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia? Chia sẻ thông tin
về những khó khăn, thách thức trong công tác này thời gian qua cũng như
những giải pháp để sớm hoàn thành việc phân giới, cắm mốc trên toàn
tuyến biên giới?
Ông Nguyễn Anh Dũng: Về cơ sở pháp lý, Việt Nam và
Campuchia ký Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa hai
nước ngày 20/7/1983. Hiệp ước này có hiệu lực vào ngày 27/9/1983. Hiệp
ước quy định rõ: "Trên đất liền, hai bên coi đường biên giới hiện tại
giữa hai nước được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư
Đông Dương, thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (kèm theo
26 mảnh bản đồ được hai bên xác nhận), là đường biên giới quốc gia giữa
hai nước.”
Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia ngày
27/12/1985 (sau đây gọi là Hiệp ước năm 1985). Hiệp ước này có hiệu lực
từ ngày 22/2/1986.
Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới
năm 1985 ngày 10/10/2005. Hiệp ước này có hiệu lực từ ngày 6/12/2005
(sau đây gọi là Hiệp ước Bổ sung năm 2005). Hiệp ước Bổ sung năm 2005
chỉ điều chỉnh sáu khu vực và một số đoạn biên giới sông suối để phù hợp
với thông lệ quốc tế; riêng đối với đoạn biên giới liên quan đến khu
vực Bu Prăng, hai bên thống nhất sẽ tiếp tục trao đổi.
Trong quá trình phân giới, cắm mốc, phát sinh vấn đề tại một số địa
phương có tình trạng cư dân sinh sống vượt quá đường biên giới chuyển
vẽ. Do đó, ngày 23/4/2011, đại diện Chính phủ hai nước Việt
Nam-Campuchia đã ký "Bản Ghi nhớ về việc điều chỉnh đường biên giới trên
bộ đối với một số khu vực tồn đọng giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia" (gọi tắt là MOU
2011). Theo đó, hai bên nhất trí duy trì đường biên giới quản lý thực
tế, căn cứ đường biên giới pháp lý hoán đổi cân bằng về diện tích và lợi
ích để không gây ảnh hưởng, xáo trộn cuộc sống, bảo đảm sự ổn định sinh
hoạt, sản xuất của nhân dân khu vực biên giới hai bên.
Về những thành quả, căn cứ các hiệp ước nói trên, toàn bộ biên giới trên
đất liền giữa Việt Nam và Campuchia đã được hoạch định, theo đó đường
biên giới pháp lý trên đất liền giữa hai nước dài khoảng 1.137km, được
thể hiện đầy đủ trên hai bộ bản đồ đính kèm Hiệp ước năm 1985, đó là bộ
bản đồ UTM tỷ lệ 1/50.000 (gồm 40 mảnh) và bộ bản đồ Bonne tỷ lệ
1/100.000 (gồm 26 mảnh). Hai nước đã phân giới cắm mốc biên giới được
khoảng trên 80%, chỉ còn lại khoảng dưới 20% đường biên giới chưa hoàn
thành phân giới cắm mốc.
Thực hiện và áp dụng mô hình MOU 2011, từ đó đến nay, hai bên đã hoàn
thành công việc hoán đổi đất tại một số khu vực thuộc sáu cặp tỉnh là
Tây Ninh-Tboung Khmum (Kampong Cham trước đây), Tây Ninh-Svay Rieng,
Đồng Tháp-Prey Veng, An Giang-Takeo, Kiên Giang-Takeo và Kiên
Giang-Kampot.
Theo quy định của Hiệp ước Bổ sung năm 2005, để có thể phân giới, cắm
mốc trên thực địa, hai bên cần chuyển đường biên giới từ bản đồ ra thực
địa. Tuy nhiên, đến nay còn sáu khu vực hai bên chưa thống nhất được
việc chuyển vẽ; đó là đoạn biên giới dự kiến cắm mốc 31-39 tiếp giáp Gia
Lai (Việt Nam) và Rattanakiri (Campuchia); đoạn biên giới dự kiến cắm
mốc 56-60 tiếp giáp Đắk Nông (Việt Nam) và Mondulkiri (Campuchia); đoạn
biên giới từ cột mốc 138-147 tiếp giáp Tây Ninh (Việt Nam) và Svay Rieng
(Campuchia); đoạn biên giới từ cột mốc 241-245 tiếp giáp An Giang (Việt
Nam) và Kandal (Campuchia); đoạn biên giới dự kiến cắm cột mốc 247-254
tiếp giáp An Giang (Việt Nam) và Kandal/Takeo (Campuchia); và đoạn biên
giới từ cột mốc 295-302 tiếp giáp Kiên Giang (Việt Nam) và Kampot
(Campuchia).
Ngoài ra, có sáu khu vực đã chuyển vẽ xong nhưng chưa triển khai được
công tác phân giới, cắm mốc trên thực địa do đây là những khu vực có thể
thực hiện mô hình MOU 2011, nhưng ý kiến của hai bên trong việc hoán
đổi đất còn khác nhau (năm khu vực ở cặp tỉnh Long An-Svay Riêng và một
khu vực ở cặp tỉnh Đắk Lắk-Rattanakiri và Mondulkiri).
Những khó khăn, thách thức là bản đồ hai bên đang sử dụng là các bản đồ
cũ (bản đồ Bonne 1/100.000 và UTM 1/50.000), địa hình trên bản đồ không
phù hợp với thực địa; địa hình nơi đường biên giới đi qua đa dạng (núi,
rừng, sông suối, đồng bằng, vùng ngập lụt...), nhiều nơi không có vật
chuẩn hoặc rất khó xác định vật chuẩn phục vụ cho phân giới cắm mốc, nên
hai bên gặp rất nhiều khó khăn về kỹ thuật khi chuyển đường biên giới
từ bản đồ UTM ra thực địa. Việc áp dụng kỹ thuật GPS cũng khó khăn do hệ
tọa độ GPS và hệ tọa độ bản đồ UTM khác nhau.
Tình hình quản lý biên giới có sự đan xen phức tạp, có nơi dân Việt Nam
sinh sống và canh tác trên lãnh thổ Campuchia, có nơi dân Campuchia lại
sinh sống và canh tác trên lãnh thổ Việt Nam. Khí hậu có hai mùa, trong
đó mùa mưa thường kéo dài khoảng 6- 7 tháng, mỗi năm chỉ có thể tác
nghiệp tại thực địa từ 4-5 tháng trong mùa khô.
Lực lượng đối lập với Chính phủ Campuchia hiện nay cũng thường lợi dụng
vấn đề biên giới để chống phá công tác phân giới cắm mốc giữa Việt Nam
với Campuchia, chống phá Chính phủ Hoàng gia Campuchia và chia rẽ mối
quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam-Campuchia.
Về những công việc cần triển khai trong thời gian tới về phân giới, cắm
mốc các đoạn biên giới còn tồn đọng, trong thời gian tới, hai bên sẽ
tiếp tục phối hợp để sớm hoàn thành việc phân giới cắm mốc đối với các
đoạn biên giới còn tồn đọng như nêu trên.
Để thực hiện nhiệm vụ này, hai bên sẽ dựa vào các nguyên tắc sau: Nghiêm
túc tuân thủ pháp luật quốc tế, đặc biệt là các hiệp ước về hoạch định
biên giới và các văn bản thỏa thuận khác giữa hai nước có liên quan;
trong trường hợp cần thiết, xem xét mời chuyên gia kỹ thuật quốc tế hỗ
trợ giải quyết các vướng mắc cụ thể về kỹ thuật liên quan tới một số
đoạn biên giới chưa phân giới cắm mốc để đảm bảo kết quả phân giới cắm
mốc ở những đoạn biên giới này khách quan, khoa học và chính xác.
Hai bên triển khai cắm mốc phụ (dự kiến số lượng trên 1.500) nhằm làm rõ
hơn hướng đi của đường biên giới trên thực địa, tạo thuận lợi cho công
tác quản lý biên giới của hai nước; hoàn thiện hồ sơ phân giới cắm mốc
để làm cơ sở xây dựng Nghị định thư về phân giới cắm mốc biên giới đất
liền giữa hai nước.
Về quản lý biên giới, để duy trì an ninh, trật tự và bảo đảm lợi ích của
nhân dân khu vực biên giới hai bên, góp phần xây dựng một đường biên
giới chung hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững,
trong khi chờ việc hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới đất liền và ký
kết một Hiệp định mới về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên
giới giữa Việt Nam và Campuchia, hai bên sẽ tiếp tục quản lý biên giới
theo Hiệp định về quy chế quản lý biên giới năm 1983 và Thông cáo báo
chí chung ngày 17/1/1995.
- Lễ khánh thành hai cột mốc 30 và 275 có sự tham dự của Thủ tướng
Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia
Campuchia Hun Sen, vậy đề nghị ông cho biết ý nghĩa của sự kiện này
trong quan hệ hai nước?
Ông Nguyễn Anh Dũng: Mốc 30 và 275 đã được Thủ tướng
Chính phủ hai nước thống nhất xác định vào tháng 5/2011, sau khi hai bên
ký Bản Ghi nhớ (MOU) tháng 4/2011.
Ngày 20/11/2015 tại thủ đô Phnom Penh, đại diện hai bên (ông Hồ Xuân
Sơn, Chủ tịch Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt
Nam-Campuchia và người đồng cấp Campuchia, ông Var Kim Hong) đã đạt được
thỏa thuận khởi công xây dựng cùng lúc hai cột mốc này vào ngày
20/11/2015.
Đồng thời, hai bên nhất trí tổ chức Lễ khánh thành cột mốc 30 theo nghi
lễ cấp cao (với sự tham dự của Thủ tướng hai nước Việt Nam và Campuchia)
và Lễ khánh thành cột mốc 275 theo nghi lễ cấp tỉnh (Thủ tướng hai nước
tới cắt băng khánh thành, không dự lễ).
Với việc hoàn thành xây dựng hai cột mốc 30 và 275, hai nước đã hoàn
thành việc xác định, xây dựng tất cả các cột mốc đại có gắn quốc huy tại
10/10 cặp cửa khẩu quốc tế; cùng với cột mốc ở điểm đầu (mốc ngã ba
biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia) và cột mốc cuối cùng (mốc 314) trên
đường biên giới đất liền Việt Nam-Campuchia và 297 cột mốc chính đã xây
dựng, có thể nói công tác phân giới cắm mốc giữa hai nước đã cơ bản hoàn
thành với việc hình thành được “xương sống” của hệ thống mốc giới trên
toàn tuyến.
Có thể nói, đây là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quan
hệ hai nước, tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của công tác phân giới
cắm mốc mà hai nước đã và đang triển khai. Sự kiện này thể hiện quyết
tâm của Lãnh đạo và nhân dân hai nước trong việc sớm hoàn thành toàn bộ
công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam-Campuchia; góp
phần quan trọng vào việc củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền
thống giữa hai nước.
- Trân trọng cảm ơn ông./.
(TTXVN)