(TG) - Dựa trên cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn, cho phép chúng ta khẳng định dứt khoát rằng: Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng!
ĐẰNG SAU NHỮNG HOẠT
ĐỘNG ĐÒI ĐA ĐẢNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY LÀ GÌ?
Đẩy mạnh hoạt động “diễn
biến hoà bình” và tuyên
truyền phá hoại cách
mạng Việt Nam, trong những
năm qua, các thế lực thù địch
tập trung tung ra nhiều luận
điệu đòi thực hiện đa đảng đối
lập. Chúng phê phán Đảng Cộng
sản Việt Nam không chịu đổi
mới về chính trị, “không chịu
thực hiện đa nguyên chính
trị, giữ độc quyền lãnh đạo”(!);
rằng ở Việt Nam “không có đa
nguyên, đa đảng thì không bao
giờ có dân chủ”(!). Chúng quy
kết: “Độc tài, Đảng trị là cái gốc
sai chính của nhà cầm quyền
Việt Nam hiện tại”(!) và khuyên
rằng “Đảng chỉ nên giữ vai trò
lãnh đạo chính trị, không nên
và không thể lãnh đạo toàn diện
và tuyệt đối”(!). Các thế lực thù
địch đòi chúng ta phải sửa đổi
Hiến pháp, xoá bỏ Điều 4, hiến
định về Đảng Cộng sản Việt Nam
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước,
lãnh đạo toàn xã hội.
Không chỉ dừng lại với
những luận điệu trên, chúng
còn thống kê, tổng hợp lại toàn
bộ những sai lầm, thiếu sót cả về
đường lối và chỉ đạo thực tiễn
của Đảng trong quá khứ, đặc
biệt là trong lĩnh vực kinh tế,
quản lý xã hội để minh chứng
cho sự cần thiết “chấm dứt vai
trò lịch sử của Đảng”(!). Chúng ra
sức khai thác, lợi dụng những
thiếu sót, khuyết điểm của một
bộ phận cán bộ, đảng viên suy
thoái biến chất, tham ô, tham
nhũng, kích động nhằm tạo sự
phân hóa sâu sắc trong Đảng,
làm suy yếu sức mạnh khối đoàn
kết, thống nhất trong Đảng và
giữa Đảng với nhân dân. Chúng
hô hào, khuyến khích cải tổ, cải
cách, đổi mới triệt để, thực hiện
đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập. Trắng trợn hơn, chúng đã ra
sức xây dựng, nhen nhóm các
tổ chức đảng đối lập phản động,
như cái gọi là “Đảng Dân chủ”,
“Đảng Dân chủ xã hội”, “Đảng
Dân chủ tự do Thiên chúa giáo”,
“Đảng Dân chủ tự do Phật giáo”...
Đằng sau tất cả những luận
điệu tuyên truyền, hoạt động
chống phá ấy, đều không ngoài
mục đích hàng đầu và quan
trọng nhất là làm suy yếu, đi đến
phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, loại bỏ
Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi
tiến trình phát triển của dân tộc.
Đó là mưu đồ hết sức thâm độc,
nham hiểm và trắng trợn của
các thế lực thù địch.
Ở VIỆT NAM KHÔNG CẦN VÀ
KHÔNG CHẤP NHẬN CHẾ
ĐỘ ĐA ĐẢNG!
Dựa trên cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn,
cho phép chúng ta khẳng định dứt khoát rằng: Ở Việt Nam hiện
nay không cần và không chấp
nhận chế độ đa đảng!
Trước hết, dưới góc độ lý luận:
Trong lịch sử, chế độ đa nguyên,
đa đảng đã sớm xuất hiện vào
đầu thế kỷ XVIII. Đây là thời
điểm giai cấp tư sản đóng vai
trò là lực lượng tiến bộ, tích cực
đi tiên phong trong đấu tranh
chống phong kiến, bảo vệ quyền
bình đẳng của các nhóm xã hội
có lợi ích khác nhau, phát triển
quyền tự do, dân chủ tư sản. Cơ
sở lý luận cho việc thực hiện đa
nguyên, đa đảng chính là chủ
nghĩa đa nguyên - một trường
phái triết học xã hội tư sản do
nhà triết học Đức Chiristian
Woiff (1679-1754) đề xuất vào
đầu thế kỷ XVIII. Chủ nghĩa đa nguyên phủ định tính thống
nhất của thế giới, cường điệu
cái riêng; phủ nhận sự phân
chia xã hội thành giai cấp, phủ
nhận đấu tranh giai cấp; chủ
trương xây dựng một cơ chế
quản lý xã hội theo nguyên tắc
đa lực lượng, đa đảng phái và các
tổ chức đảng phái này quan hệ
với nhau theo nguyên tắc hiệp
thương. Vì vậy, đây là một học
thuyết phi mácxít. Nếu áp dụng
quan điểm này vào chủ nghĩa xã
hội sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của
Đảng Cộng sản - đội tiên phong
của giai cấp công nhân thành
một tổ chức tầm thường và nguy
cơ phủ định vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Như thế, chủ nghĩa đa
nguyên là sản phẩm của giai
cấp tư sản với thế giới quan phi
khoa học, trái với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Trong khi đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã, đang
và sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hoạt
động của Đảng. Chính điều đó
đã, đang và sẽ mãi bảo đảm cho
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng
chính trị duy nhất tồn tại, vững
mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch
sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở
Việt Nam không cần sự tồn tại
của chủ nghĩa đa nguyên - một
thứ cơ sở lý luận cho việc thực
hiện chế độ đa đảng.
Thứ hai, trên phương diện
thực tiễn: Thực tiễn lịch sử cách
mạng Việt Nam đã cho thấy, sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với đất nước là sự lựa
chọn tất yếu của lịch sử; là ý
nguyện của nhân dân Việt Nam.
Điều này được lịch sử minh
chứng rõ ràng. Vượt lên trên
tất cả những hạn chế về đường
hướng, phương pháp của những
phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, phong trào cách mạng
vô sản ở Việt Nam đã hướng
theo chủ nghĩa Mác - Lênin, do
Nguyễn Ái Quốc truyền bá và
phát triển mạnh mẽ. Đáp ứng
đòi hỏi đó, trải qua quá trình
được chuẩn bị chín muồi về
chính trị, tư tưởng và tổ chức,
ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời và đã khẳng
định lấy “chủ nghĩa Lênin làm
cốt”. Đây là một tất yếu lịch sử
và cũng từ đây, chấm dứt thời
kỳ cách mạng Việt Nam khủng
hoảng về đường lối, mở ra một
thời đại mới cho lịch sử dân tộc.
Trong thời kỳ 1930 - 1945,
lịch sử Việt Nam đã chứng minh,
chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam
chứ không cần thêm bất cứ một
tổ chức, đảng phái chính trị nào
khác lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Thắng lợi của công cuộc
đấu tranh giành chính quyền
mà đỉnh cao là Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, đã mở ra một
kỷ nguyên mới trong lịch sử dân
tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do,
hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa
xã hội - đó chính là công lao to
lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong những năm 1945-1946,
do bối cảnh tình hình chính trị
diễn biến phức tạp, ở Việt Nam,
ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam
còn tồn tại một số đảng phái
đối lập như Việt Nam Quốc dân
đảng, Việt Nam Cách mạng đồng
minh hội..., nhưng trên thực tế,
chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo cách mạng.
Các đảng phái, tổ chức đối lập
thời kỳ này đã không vì lợi ích
quốc gia, dân tộc mà âm mưu
phá hoại cách mạng, xoá bỏ
chính quyền cách mạng non trẻ,
nên bị chính lịch sử và nhân dân
ta loại bỏ.
Trong cuộc trường chinh 30
năm (1945-1975) kháng chiến
giải phóng dân tộc khỏi ách xâm
lược của thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử
và nhân dân lại lựa chọn Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng
chính trị duy nhất có sứ mệnh
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ này, bên cạnh
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
tồn tại hai đảng khác là Đảng
Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã
hội Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai
đảng này chưa bao giờ đối lập
với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà
đều ủng hộ, thừa nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và sau này hoàn toàn tự
nguyện giải tán. Cũng trong thời
gian này, còn có những đảng
phái thân Pháp, thân Mỹ đối lập
với Đảng Cộng sản Việt Nam, đi
ngược lại quyền lợi của dân tộc
và lợi ích của nhân dân lao động,
nên cũng đã bị chính nhân dân
ta đấu tranh loại bỏ.
Từ sau năm 1975 đến nay,
nền chính trị nhất nguyên, với
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam ngày càng được
củng cố, phát triển toàn diện,
đã một lần nữa khẳng định tính
tất yếu khách quan: Đảng Cộng
sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc mà không cần sự tồn tại
của nhiều đảng. Với bản lĩnh, trí
tuệ, “là đạo đức, là văn minh”,
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo nhân dân cả nước thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới,
đưa nước ta từ một nước nghèo
nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng
nề bởi chiến tranh, vượt qua
khủng hoảng gay gắt về kinh
tế - xã hội, trở thành một quốc
gia đang phát triển hết sức năng
động. Đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân ngày càng
được cải thiện; dân chủ xã hội
chủ nghĩa được mở rộng; quốc
phòng, an ninh được giữ vững;
văn hoá, xã hội có nhiều bước
phát triển; vị thế, uy tín của
Việt Nam không ngừng được
nâng cao trong khu vực và trên
trường quốc tế. Như vậy, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Việt Nam đang phát
triển mạnh mẽ, đạt được những
tiêu chí cao nhất trong hoạt
động chính trị của một đảng
cầm quyền (dù là chế độ đa đảng
hay một đảng đều phải hướng
tới vấn đề cốt tử nhất), đó là:
chính trị ổn định, kinh tế tăng
trưởng, văn hoá, xã hội phát
triển bền vững, an sinh xã hội
được bảo đảm. Chính thực tiễn
này đã khẳng định, ở Việt Nam
hiện nay không cần đa đảng và
cũng đúng với nhận định của
đồng chí Nguyễn Phú Trọng: “Ở
Việt Nam chưa thấy sự cần thiết
khách quan phải có chế độ đa
đảng, ít nhất cho đến bây giờ”(1).
Một trong những luận điệu
tuyên truyền được các thế lực
thù địch tập trung tung hô, cổ
suý nhiều nhất ở Việt Nam hiện
nay là đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập để “có dân chủ và
phát triển”(!). Họ cho rằng: “Đa
đảng là dân chủ, độc đảng là độc
tài”(!); Việt Nam phải đa đảng
đối lập để có dân chủ “thực
sự”(!); “muốn thực sự có dân chủ
cho người dân và phát triển xã
hội phải thực hiện “đa nguyên,
đa đảng””(!)...
Chúng ta đều biết rằng, dân
chủ là phạm trù lịch sử, xuất
hiện khi có nhà nước và mỗi nền
dân chủ phải gắn với một nhà
nước nhất định, được pháp luật
quy định. Dân chủ tuỳ thuộc vào
sự phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định. Về điều này, C.Mác
đã chỉ rõ: “Quyền không bao giờ
có thể ở một mức cao hơn chế
độ kinh tế và sự phát triển văn
hoá của xã hội do chế độ kinh tế
xã hội đó quyết định”(2).
Trên thực tế, thể chế nhất
nguyên một đảng lãnh đạo hoàn
toàn không đồng nghĩa với mất
dân chủ, kém phát triển và dân
chủ, phát triển không đồng
nghĩa với đa nguyên, đa đảng.
Trên thế giới hiện nay, có không
ít những nước đa đảng, nhưng
vẫn mất dân chủ, vẫn là những
nước nghèo, kém phát triển
nhất; ngược lại, cũng có những
nước chỉ một đảng lãnh đạo,
nhưng dân chủ vẫn được bảo
đảm, kinh tế - xã hội phát triển,
đời sống nhân dân sung túc. Điều đó minh chứng là: đa nguyên, đa
đảng không phải là cứu cánh cho
dân chủ và sự phát triển, đúng
như đồng chí Nguyễn Phú Trọng
đã khẳng định: “Không phải có
nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít
đảng thì ít dân chủ hơn”(3).
Cũng từ thực tiễn lịch sử đã
cho thấy, một điều hết sức đau
xót đối với cách mạng thế giới,
đó là sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên bang Xôviết và các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu vào thập niên cuối của thế kỷ
XX. Đặc biệt, ở Liên Xô, dưới tác
động bởi những âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hoà bình” của
các thế lực thù địch, cùng với
sự “phản bội” của một số người
trong Uỷ ban Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô, đứng đầu là
M.Gorbachev đã đưa tới tại Đại
hội bất thường của các đại biểu
nhân dân ngày 15-3-1990, quyết
định xoá bỏ Điều 6 Hiến pháp
Liên Xô, hiến định về vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bắt
đầu từ điểm mốc này, đã hình
thành chế độ đa đảng ở Liên
Xô, với sự ra đời của vô số các
tổ chức, đảng phái chính trị, đối
lập cạnh tranh vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Liên Xô, để
rồi đưa tới một kết cục bi thảm:
Đảng Cộng sản Liên Xô mất
quyền lãnh đạo đất nước, chế độ
xã hội chủ nghĩa được xây dựng
trong hơn 70 năm hoàn toàn
sụp đổ vào tháng 8-1991. Chính
bài học thực tiễn đau xót này chỉ
ra rằng, nếu hiện nay Việt Nam
chấp nhận đa nguyên, đa đảng
thì kết cục chắc chắn sẽ không
khác gì như Liên Xô trước đây.
Cũng cần phải làm rõ hơn,
các lập luận của những người
muốn thực hiện đa đảng ở Việt
Nam thường lấy “thực tiễn” ở
các nước tư bản để minh chứng,
dẫn tới một số người do thiếu
hiểu biết nên đã ít nhiều tin
vào những luận điệu chống phá
của các thế lực thù địch, mà lầm
tưởng rằng cứ nhiều đảng cạnh
tranh thì sẽ dân chủ hơn, xã hội
phát triển hơn.
Hãy nhìn sang một số nước
tư bản hiện nay, nhất là nước
Mỹ với sự tồn tại của 112 đảng,
nhưng chỉ có hai đảng (Đảng
Dân chủ và Đảng Cộng hoà) thay
nhau cầm quyền. Tuy bề ngoài
là chế độ đa đảng đối lập, nhưng
xét về bản chất chỉ là một đảng
- đảng của giai cấp tư sản. Vì
thế, dù Đảng Dân chủ hay Đảng
Cộng hoà nắm quyền, cũng đều
là đảng của giai cấp tư sản, đại
diện cho lợi ích của giai cấp tư
sản; dân chủ ở Mỹ không gì khác
là nền dân chủ tư sản, nền dân
chủ chỉ dành cho một bộ phận
thiểu số, một số ít người trong
xã hội. Điều này cũng dễ hiểu tại
sao ở Mỹ, bên cạnh “một xã hội”
với những người có cuộc sống xa
hoa, hào nhoáng thì vẫn còn tồn
tại “một xã hội” hoàn toàn khác
hẳn, gồm hàng chục triệu người
phải sống trong sự bất công,
thất nghiệp, đói nghèo, bệnh tật,
không có quyền dân chủ... Chính
người Mỹ, Paul Mishler - Giáo
sư trường Đại học bang Indiana
đã chỉ rõ nguyên nhân của tình
trạng này: Mọi đói nghèo, thất
nghiệp, thất học,v.v.. đều do lỗi
của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư
bản Mỹ gây ra; nước Mỹ tự xưng
là đa đảng nhưng thực chất chỉ
là một đảng, đó là đảng của chủ
nghĩa tư bản, dù là Đảng Cộng
hoà hay Dân chủ(4).
Như vậy, thực chất luận điểm
“đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập” mang nặng tính chất mị
dân, hết sức nguy hiểm, bởi rất
dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất
là đối với những người có nhận
thức hạn chế. Từ đó, có thể gây
nên sự mơ hồ, lẫn lộn, dẫn tới sự
dao động về tư tưởng, hoài nghi
về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với cách mạng
Việt Nam; gây nên sự phân tâm
trong xã hội; làm suy giảm và
mất dần niềm tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Cũng từ những
luận điểm này, đã hướng đến
việc xoá bỏ nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ
tư sản; nguy cơ gây nên những
khó khăn trong quá trình phát
triển của xã hội Việt Nam, nhất
là làm cho chính trị - xã hội mất
ổn định, kinh tế suy giảm, văn
hoá đạo đức xuống cấp, các mâu
thuẫn và xung đột xã hội sẽ gia
tăng, phá vỡ khối đoàn kết dân
tộc... Từ đó, chắc chắn hậu quả
đối với đất nước sẽ vô cùng lớn,
chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ đứng
trước nguy cơ bị sụp đổ, thành
quả cách mạng bao nhiêu năm
có được sẽ tan vỡ; người dân
không những không được dân
chủ, mà xã hội cũng rơi vào
rối loạn, khủng hoảng, trì trệ,
không phát triển được.
Để không để xảy ra những
hậu quả tai hại đó, ở Việt Nam
hiện nay, nhất thiết không cần
và không thể chấp nhận đa đảng
đối lập như các thế lực thù địch
mong muốn!
PGS.TS. Nguyễn Xuân Tú
(Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 7/2018)
_________________________
(1), (3) Thông tấn xã Việt Nam,
ngày 26-2-2010.
(2) C.Mác và Ăngghen: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995,
t.19, tr.36.
(4) Tạp chí Nghiên cứu châu Âu,
số 7 (106), 2009, tr.87-89.