Trên cơ sở các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982,
quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh
tế 200 hải lý là có cơ sở pháp lý vững chắc theo luật pháp quốc tế.
Chiều 18/11, tại Đà Nẵng, sau hai ngày làm việc tích cực với gần 40 tham
luận và hơn 80 ý kiến thảo luận, Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông
lần thứ 6 với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong
khu vực” đã thành công tốt đẹp.
Tại hội thảo, đánh giá về các xu hướng môi trường địa chiến lược ở Biển
Đông hiện nay, nhiều học giả lo ngại Biển Đông đang ngày càng trở thành
không gian cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc.
Một số học giả nhìn nhận tình hình phức tạp ở Biển Đông cũng mở ra các
cơ hội để ASEAN và các đối tác của ASEAN đóng vai trò tích cực hơn trong
việc hỗ trợ tìm kiếm các giải pháp cho vấn đề Biển Đông.
Nhiều học giả đã bày tỏ quan tâm tới sáng kiến “Trục hàng hải” của Tổng
thống Indonesia J. Widodo vừa đưa ra, cho rằng Indonesia với tư cách là
một nước lớn về biển và có nhiều lợi ích ở Biển Đông có triển vọng đóng
vai trò lớn hơn, tích cực hơn trong việc thúc đẩy hợp tác biển và củng
cố các chuẩn mực, nguyên tắc hợp tác biển ở khu vực.
Các học giả cũng cho rằng các tổ chức khu vực như Liên minh châu Âu cũng
cần đóng góp tích cực hơn thông qua chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn về
các biện pháp và các quy định pháp lý đã được sử dụng trong việc phòng
ngừa xung đột, quản lý tranh chấp về lãnh thổ và vùng biển ở khu vực
châu Âu.
Trong bối cảnh tranh chấp giữa các nước trong khu vực liên quan đến việc
giải thích và áp dụng luật pháp quốc tế, các học giả đã dành nhiều thời
gian phân tích chế độ pháp lý đối với hoạt động xây dựng, cải tạo đảo
nhân tạo, quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa,
khu vực nhận diện phòng không tại các khu vực chồng lấn; kinh nghiệm áp
dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp biển trên cơ sở luật pháp quốc tế,
đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Các học giả đã phân tích quá trình hình thành Quy định về Vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý. Theo đó, các quốc gia ven biển có thẩm quyền riêng
biệt để phát triển và quản lý quy chế bảo tồn các nguồn tài nguyên trong
Vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Trên cơ sở các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982,
quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh
tế 200 hải lý là có cơ sở pháp lý vững chắc theo luật pháp quốc tế.
Các học giả đặc biệt nhấn mạnh rằng trong bối cảnh tình hình Biển Đông
căng thẳng và có nhiều biến động hiện nay, các bên liên quan cần nỗ lực
kiềm chế, không thực hiện các chính sách đơn phương làm thay đổi nguyên
trạng tại Biển Đông.
Các hoạt động xây dựng, bồi đắp đảo nhân tạo với quy mô lớn, với triển
vọng biến các bãi ngầm, đảo đá thành các căn cứ quân sự trong khu vực
tranh chấp tại Biển Đông, hoặc thành lập vùng nhận dạng phòng không để
củng cố yêu sách của mình, không chỉ trái với luật pháp quốc tế mà còn
làm gia tăng nghi kỵ khiến tình hình thêm phức tạp, thậm chí có thể dẫn
đến xung đột.
Các học giả nhấn mạnh sự cần thiết tuân thủ những thỏa thuận khu vực
hiện hành trong đó có DOC và thúc đẩy hợp tác trong các diễn đàn, cơ chế
hiện có, các cơ chế diễn đàn đa phương mà quan trọng nhất là các diễn
đàn mà ASEAN đóng vai trò trung tâm.
Các học giả cho rằng thúc đẩy hợp tác, thúc đẩy việcxây dựng khuôn khổ
pháp lý của khu vực dựa trên luật pháp quốc tế là một giải pháp để dung
hòa các lợi ích khác biệt của các bên vì lợi ích chung trong việc duy
trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, tự do hàng
không ở Biển Đông.
Nhiều học giả đã nêu đề xuất giảm thiểu căng thẳng bằng cách thành lập
những cơ chế quản lý tranh chấp và khuyến khích tất cả các bên liên quan
có thái độ hợp tác linh hoạt, tìm những cách áp dụng và giải thích luật
pháp quốc tế phù hợp, được công nhận rộng rãi để giải quyết các tranh
chấp, bất đồng trên Biển Đông.
Một số đề xuất cụ thể đã được các học giả nêu ra như sau:
Thứ nhất, xây dựng quy tắc ứng xử nhằm củng cố việc tuân thủ luật pháp
quốc tế ở Biển Đông; đưa ra các khuyến nghị cụ thể nhằm giải thích Điều 5
của Tuyên bố về Quy tắc ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC), xác
định rõ những hành động của các bên cần được khuyến khích, cho phép,
những hành động cần kiềm chế thực hiện để đảm bảo không làm thay đổi
nguyên trạng và tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác, giải quyết tranh
chấp tại Biển Đông.
Thứ hai, thảo luận các quy tắc chung về hoạt động của các lực lượng quân
sự và các lực lượng thực thi pháp luật trong các vùng biển để đảm bảo
tự do và an toàn hàng hải, phòng ngừa các va chạm, sự cố bất ngờ ở Biển
Đông, giảm thiểu các sự cố trên biển do việc đơn phương áp đặt quyền
thực thi pháp luật của một quốc gia đối với người và tàu của quốc gia
khác trong các vùng biển chồng lấn.
Thứ ba, xây dựng cơ chế hợp tác trong các lĩnh vực an ninh phi truyền
thống như phòng chống cướp biển, cướp có vũ trang trên biển, tìm kiếm
cứu nạn đối với người và tàu trên biển; Đẩy mạnh các biện pháp và các
kênh, cơ chế chia sẻ thông tin biển thông qua các hình thức như Cổng
thông tin ASEAN (AIP), Trung tâm thông tin biển khu vực ARF (ARF-RMIC).
Thứ tư, thúc đẩy hợp tác khai thác và quản lý tài nguyên thiên nhiên
sinh vật biển và bảo vệ, bảo tồn, nghiên cứu môi trường biển.
Phát biểu bế mạc Hội thảo, Đại sứ Đặng Đình Quý cảm ơn các ý kiến thẳng
thắn, tâm huyết và trách nhiệm của các học giả, đồng thời nhấn mạnh ba
nội dung mong muốn các học giả tiếp tục cùng giúp các nhà hoạch định
chính sách làm rõ.
Đại sứ đề nghị các học giả tiếp tục giúp minh bạch hóa môi trường chiến
lược ở Biển Đông, điều chỉnh các hiểu biết và nhận thức chưa chính xác,
giảm thiểu những tính toán sai lầm có thể dẫn đến các nguy cơ xung đột
tiềm tàng; làm rõ “bức tranh nguyên trạng” ở Biển Đông, giúp các nước có
liên quan hiểu rõ các điều kiện tự nhiên, thực thể, tài nguyên và môi
trường tạo ra nguyên trạng tại Biển Đông và các biện pháp, nghĩa vụ pháp
lý mà các bên cần áp dụng để giữ gìn nguyên trạng đó và làm sáng tỏ các
vấn đề pháp lý và đề xuất xây dựng một trật tự pháp lý phù hợp với
chuẩn mực của luật pháp quốc tế ở Biển Đông./.
Văn Sơn (TTXVN)