I. Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự phát
triển của đất nước ta. Tầm vóc và ý nghĩa cách mạng sâu sắc của công
cuộc đổi mới thể hiện ở việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”
Bằng những cải biến sâu sắc và toàn diện, quá trình đổi mới đã đem lại
những thành tựu phát triển to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển, gia nhập
nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp. Trong liên tục nhiều năm, nền
kinh tế đạt mức tăng trưởng khá, góp phần đẩy lùi đói nghèo, lạc hậu,
nâng cao đời sống nhân dân.
Chính trị-xã hội đất nước ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường;
văn hóa-xã hội có bước phát triển tích cực. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ngày càng được phát huy và mở rộng, góp phần củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ
quyền của đất nước được giữ vững. Cùng với quan hệ đối ngoại rộng mở và
đang đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế ngày một nâng cao. Đó là tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển sáng tạo, sớm
đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với
các cường quốc năm châu.
Nhìn lại lịch sử phát triển của thế giới, các nước công nghiệp phát
triển ngày nay đều đã từng trải qua quá trình công nghiệp hóa, cho dù mô
hình và phương thức có thể khác nhau. Trong đó, một số nền kinh tế Đông
Á bằng mô hình kinh tế hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), chú trọng phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công
nghệ, tăng cường tiết kiệm nội địa và xử lý hài hòa mối quan hệ giữa nhà
nước và thị trường nên chỉ trong một thời gian ngắn đã phát triển bứt
phá, vươn lên trở thành những nền kinh tế công nghiệp hóa mới.
Tận dụng lợi thế của một nước đi sau trong tiến trình toàn cầu hóa và vị
thế địa-kinh tế nhờ nằm ở trung tâm một khu vực kinh tế năng động nhất
thế giới, Việt Nam đã tích cực và chủ động hội nhập quốc tế để tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy nguồn lực bên trong, đồng thời
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài, tạo nên sức
mạnh tổng hợp quốc gia, phấn đấu để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa
theo hướng hiện đại thay vì thực hiện tuần tự con đường công nghiệp hóa
như nhiều nước đã đi qua.
Cùng với quá trình đổi mới, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta đã thay đổi căn bản. Từ công nghiệp hóa dựa theo hình mẫu Xô
Viết, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chúng ta đã từng bước điều
chỉnh, khắc phục những sai lệch trong cơ cấu sản xuất và đầu tư, chuyển
sang công nghiệp hóa dựa trên lợi thế so sánh, tập trung phát triển nông
nghiệp và khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp-xây dựng, dịch
vụ theo hướng hiện đại, có khả năng cạnh tranh và phù hợp với thực tế
đất nước.
Từ chỗ, Nhà nước là lực lượng duy nhất phân bổ và sử dụng các nguồn lực
cho công nghiệp hóa, chúng ta đã chuyển sang kết hợp Nhà nước với thị
trường trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực, tạo thuận lợi cho
mọi thành phần kinh tế tham gia vào quá trình công nghiệp hóa. Từ công
nghiệp hóa theo cách đi tuần tự và khép kín, chúng ta đã tiến hành công
nghiệp hóa trong nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế, kết hợp công nghiệp
hóa với hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.
Nhờ vậy, sau 30 năm, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nước ta đã
xây dựng được kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản cho thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo
hướng hiện đại, vai trò của công nghiệp được nâng lên, khu vực thương
mại, dịch vụ trở nên quan trọng và luôn tăng trưởng khá.
Kim ngạch ngoại thương tăng mạnh; một số sản phẩm xuất khẩu của nước ta
đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Nền kinh tế đã thu
hút được một lượng lớn nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bước đầu tham gia
vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Kinh tế nông thôn, đặc biệt
là sản xuất nông nghiệp, đã chuyển dần từ sản xuất nhỏ, manh mún sang
sản xuất hàng hóa, gắn với nhu cầu thị trường và trên cơ sở phát huy lợi
thế của nền nông nghiệp nhiệt đới.
Chúng ta đã hình thành một số vùng kinh tế trọng điểm nhằm tạo động lực
và sức lan tỏa phát triển, trên cơ sở khai thác và phát huy tiềm năng,
lợi thế của vùng. Nhiều khu công nghiệp, khu đô thị lớn được hình thành.
Đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân được tôn vinh và ngày một phát triển;
trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Cơ cấu dân cư và lao động có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ lệ
dân cư và lao động trong khu vực nông nghiệp và nông thôn; chất lượng
nguồn nhân lực từng bước được nâng lên. Bộ mặt xã hội đang thay da đổi
thịt từng ngày. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện rõ rệt theo các bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, đất nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Trong
mười năm trở lại đây, khi chúng ta hội nhập sâu, rộng vào khu vực và
thế giới, nhiều yếu kém nội tại, nhất là những bất cập về thể chế, quản
trị đất nước, đã bộc lộ rõ hơn, làm cho tiến trình phát triển kinh tế
nhanh và bền vững gặp khó khăn, làm tăng nguy cơ tụt hậu của nước ta với
các nước công nghiệp và ngay cả với nhiều nước trong khu vực.
Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh, tính tự chủ
của nền kinh tế còn thấp. Các mặt văn hóa-xã hội, giáo dục-đào tạo,
khoa học-công nghệ, y tế, môi trường còn nhiều bất cập, phân hóa giàu
nghèo có xu hướng gia tăng, cuộc sống của nhân dân ở một số vùng còn rất
khó khăn...
Nhìn chung, nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng,
tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào việc khai thác tài nguyên,
lao động trình độ thấp và sử dụng nhiều vốn, chưa dựa nhiều vào tri
thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng.
Chất lượng và tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn thấp so với tiềm
năng và chênh lệch khá xa so với các nước trong khu vực. Thực lực công
nghiệp của nước ta trên thực tế vẫn rất nhỏ. Chúng ta vẫn chưa thực sự
hình thành được những ngành công nghiệp nền tảng và những ngành công
nghiệp mũi nhọn.
Sản xuất công nghiệp có xu hướng phụ thuộc ngày càng lớn vào đầu tư nước
ngoài và nhập khẩu các yếu tố đầu vào; tỷ lệ gia công, lắp ráp còn lớn.
Tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng của nền công nghiệp còn thấp, các
ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển. Các ngành dịch vụ chất lượng
cao chậm phát triển, khả năng cạnh tranh thấp, chưa thực sự hỗ trợ cho
phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Trong khi đó, nền nông nghiệp còn
lạc hậu, nhiều nơi vẫn là sản xuất nhỏ, dựa trên hộ gia đình là chủ
yếu.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lại lao động nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra chậm và kém hiệu quả.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội còn chưa đồng bộ, thiếu tính kết
nối và hiện đại. Tiến trình đô thị hóa nhanh nhưng do thiếu quy hoạch
dài hạn và những hạn chế trong quản lý quy hoạch khiến cho một số đô thị
quá tải, chất lượng dịch vụ thấp, mô hình quản lý đô thị chưa hiện đại.
Đặc biệt, điều được coi là sáng kiến khi gắn công nghiệp hóa với hiện
đại hóa và phát triển kinh tế tri thức chưa đạt được kết quả như mong
đợi. Đóng góp của khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế-xã hội
còn mờ nhạt. Trình độ công nghệ lạc hậu và năng lực sáng tạo yếu khiến
cho khả năng cạnh tranh của hàng hóa do các doanh nghiệp Việt Nam sản
xuất ra còn thấp.
Nguồn nhân lực của chúng ta tuy đông về số lượng nhưng kém về chất
lượng, chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp hiện đại. Chuyển
dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm, chưa đáp ứng yêu cầu giải quyết tốt
một trong những vấn đề kinh tế-xã hội bức xúc hiện nay là lao động dư
thừa trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
Năng suất lao động của nước ta rất thấp và thấp xa so với nhiều nước
trong khu vực, trong khi mức tăng năng suất lao động nói chung và năng
suất tổng hợp các nhân tố (TFP) nói riêng đang có chiều hướng chậm lại.
Đây là yếu tố bất lợi cho quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại
và nỗ lực nâng cao mức thu nhập bình quân đầu người của nước ta nhằm thu
hẹp khoảng cách phát triển với các nước công nghiệp.
Trên thực tế, chênh lệch thu nhập bình quân đầu người và khác biệt về cơ
cấu kinh tế của Việt Nam so với mức chuẩn chung của một nước công
nghiệp còn rất lớn. Nếu coi đây là những tiêu chí quan trọng để xem xét
mức độ công nghiệp hóa thì phải mất nhiều năm nữa nước ta mới có thể đạt
được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều, có nguyên nhân khách quan,
nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan. Mô hình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa chưa được làm rõ, điều chỉnh kịp thời, phù hợp với những thay
đổi nhanh chóng trên thế giới; thiếu một chiến lược phát triển công
nghiệp quốc gia theo hướng hiện đại, định vị rõ vị trí kinh tế nước ta
trong nền kinh tế toàn cầu.
Các chiến lược phát triển từng ngành công nghiệp còn thiếu cụ thể và
thiếu trọng tâm. Chính sách công nghiệp chưa được chú trọng xây dựng,
chưa thực sự gắn với chính sách thương mại và đầu tư như ở nhiều nền
kinh tế có độ mở lớn khác.
Việc thực hiện ba đột phá chiến lược là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ tuy có những chuyển
biến nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều
rộng duy trì quá lâu.
Mặc dù chủ trương khắc phục vấn đề này đã được đề ra từ Đại hội XI, tiến
trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trên thực tế
diễn ra rất chậm, không đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước. Do
thiếu sự chuẩn bị cần thiết, chúng ta chưa tận dụng đầy đủ các cơ hội mà
hội nhập quốc tế và lợi thế địa-kinh tế mang lại để phát triển mạnh mẽ
kinh tế đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn chưa được coi
trọng đúng mức. Tác động tích cực của nhiều chính sách “cởi trói” cho
nông nghiệp và nông thôn trong giai đoạn đầu đổi mới đã tới hạn, thậm
chí một số chính sách còn kìm hãm sự phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân
trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ và vừa, chưa
được khuyến khích phát triển; tư tưởng kinh doanh chạy theo lợi ích ngắn
hạn còn phổ biến. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn chậm.
Các doanh nghiệp nhà nước vẫn dựa vào cơ chế ưu đãi, “xin-cho,” hiệu quả
thấp, chưa thực sự phát huy vai trò nòng cốt trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Dù nhận được nhiều ưu đãi song tác động lan
tỏa về công nghệ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn hạn chế.
Hoạt động của các doanh nghiệp trong nước cơ bản chỉ là gia công và chế
biến với giá trị gia tăng rất thấp khiến cho nền sản xuất nước ta đang
có nguy cơ rơi vào bẫy gia công lắp ráp và kẹt trong những nấc thang
thấp của mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Hệ thống quản trị quốc gia và thể chế kinh tế đang bộc lộ nhiều bất cập,
yếu kém. Điều này thể hiện rõ trong sự cồng kềnh và kém hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy quản lý nhà nước và những bất cập trong việc xử lý đúng
đắn mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường.
Một mặt, sự can thiệp chủ quan của Nhà nước vào thị trường và hoạt động
của doanh nghiệp bằng các biện pháp hành chính còn chậm thay đổi. Mặt
khác, vai trò của Nhà nước trong việc dẫn dắt, hỗ trợ phát triển và khắc
phục các khiếm khuyết của thị trường chưa được phát huy đúng mức.
Chất lượng của nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các
ngành, lĩnh vực, các vùng còn thấp; thực hiện thiếu nhất quán, kỷ luật
kỷ cương không nghiêm, bị chi phối bởi “bệnh thành tích,” chạy theo tốc
độ tăng trưởng, “tư duy nhiệm kỳ” làm cho đầu tư dàn trải, nợ xấu cao,
nợ công tăng nhanh...
Sự phát triển giữa các vùng còn thiếu tính phối hợp; không gian kinh tế
vẫn bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Mặc dù cải cách hành chính và
môi trường kinh doanh được quan tâm, đạt một số kết quả nhưng vẫn chưa
bắt kịp được các nước trong khu vực. Sự thiếu gắn kết giữa cải cách toàn
diện môi trường kinh doanh với cải cách tư pháp đang cản trở việc hình
thành niềm tin dài hạn cho cộng đồng doanh nghiệp trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
Đội ngũ công chức, viên chức đông nhưng không mạnh, một bộ phận phẩm
chất, năng lực yếu, thiếu tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân
dân. Tình trạng tham nhũng, lãng phí và trục lợi ở những thay đổi của
chính sách, lợi ích nhóm đang trở thành nguy cơ ngày một lớn có thể kìm
hãm, thậm chí đẩy lùi quá trình đổi mới đất nước.
II. Thế giới ngày nay đang thay đổi nhanh chóng, cơ hội và thách thức
đối với sự phát triển của đất nước ta đan xen phức tạp. Sau cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sự phát triển của thế
giới đang đứng trước một bước ngoặt mới. Các quy tắc, chuẩn mực và thể
chế toàn cầu đang có những điều chỉnh và thay đổi căn bản.
Các thỏa thuận thương mại thế hệ mới với các điều kiện cam kết ở trình
độ rất cao, vừa hướng vào mở cửa nền kinh tế vừa gắn với những vấn đề
khác như bảo vệ môi trường, công bằng xã hội và phát triển con người…,
đòi hỏi các bên tham gia phải có những điều chỉnh nhanh chóng để thích
ứng. Các nước đều có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đối mặt với
những thách thức to lớn.
Tri thức, công nghệ và sáng tạo ngày càng đóng vai trò quyết định sự
phát triển thành công của các nước. Các nước sở hữu tri thức và thúc đẩy
sáng tạo đang dẫn dắt sự phát triển của thế giới. Các nước đi sau như
nước ta có cơ hội “đi tắt đón đầu” bằng tăng cường áp dụng những thành
tựu khoa học và công nghệ mới; nhưng bước chuyển nhanh sang nền kinh tế
tri thức và vai trò gia tăng của tiến bộ khoa học và công nghệ cũng tạo
ra sự cạnh tranh, đào thải khốc liệt và nới rộng khoảng cách phát triển
giữa các nước. Điều này buộc chúng ta phải có cách tiếp cận phát triển
mới, hướng vào công nghệ, sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao để
tạo ra những lợi thế, đồng thời đẩy mạnh tham gia vào mạng sản xuất,
chuỗi giá trị và hệ thống tri thức toàn cầu.
Tình hình chính trị và an ninh thế giới gần đây biến động phức tạp, tạo
môi trường không thuận lợi cho phát triển kinh tế. Các nước lớn cạnh
tranh gay gắt để mở rộng ảnh hưởng, tương quan sức mạnh và cục diện phát
triển trên thế giới thay đổi nhanh, sự nổi lên của các vấn đề an ninh
phi truyền thống đe doạ quá trình phát triển bền vững, đặt các nước, đặc
biệt là các nước nhỏ đứng trước rất nhiều khó khăn.
Sự thiếu hụt nghiêm trọng các nguồn lực phát triển, nhất là các nguồn
tài nguyên thiên nhiên; mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với nhu cầu
năng lượng, bùng nổ dân số ở các nước kém phát triển, già hóa dân số ở
nhiều nước phát triển và bảo vệ môi trường ngày càng nổi rõ.
Nguy cơ xung đột, cạnh tranh gay gắt và các rủi ro liên quan đến việc
tranh giành các nguồn lực để khắc phục các thiếu hụt này đặt các nước đi
sau trước sức ép lớn do năng lực đối phó chưa đủ mạnh. Trong khu vực,
tình hình xâm phạm và tranh chấp chủ quyền ở biển Đông đang diễn biến
phức tạp, tạo ra những thách thức nghiêm trọng đối với công cuộc bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cũng như duy trì môi
trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước ta.
Trong bối cảnh đó, Đại hội lần thứ XII của Đảng có ý nghĩa rất quan
trọng, là Đại hội đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển đất nước, để sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đây là vận hội lớn của đất
nước ta sau 30 năm đổi mới, là thời điểm để chúng ta đổi mới mạnh mẽ hơn
trong tư duy; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; nỗ lực cải cách hệ thống quản trị quốc gia một
cách toàn diện và sâu sắc; chủ động hội nhập quốc tế để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đổi mới tư duy và phương thức đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chúng ta cần một tư duy mới, sáng tạo về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
dựa trên các luận cứ khoa học phù hợp với một thế giới đang thay đổi
nhanh chóng.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong giai đoạn tới gắn bó mật
thiết với phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lấy
khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động
lực chủ yếu; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực phát
triển chủ yếu theo cơ chế thị trường; Nhà nước định hướng, hỗ trợ, khắc
phục các khiếm khuyết của thị trường bằng luật pháp, cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực của Nhà nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân và toàn xã hội.
Chủ thể của quá trình này là mọi người dân và các doanh nghiệp đều bình
đẳng kinh doanh theo pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và
thành phần kinh tế.
Trên nền tảng tư duy đó, những định hướng chiến lược cho quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta trong giai đoạn tới bao gồm:
i) tiếp tục phát triển hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, thu hút lao
động ít kỹ năng ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp; đồng thời phát triển đột
phá các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng, hóa chất, công
nghiệp vật liệu, công nghiệp điện tử, công nghiệp phục vụ nông nghiệp,
công nghiệp phụ trợ có hàm lượng công nghệ cao, hướng vào xuất khẩu và
thay thế nhập khẩu, tham gia vào chuỗi sản xuất và giá trị toàn cầu, qua
đó giúp nước ta rút ngắn thời gian thực hiện công nghiệp hóa;
ii) phát triển mạnh các ngành dịch vụ có tính kết nối, đáp ứng yêu cầu
của sản xuất và tiêu dùng xã hội, nhất là những ngành dịch vụ dựa trên
công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, như dịch vụ tài chính, ngân
hàng, thương mại, du lịch, vận tải, viễn thông, giáo dục đào tạo, khoa
học công nghệ, y tế... có thể giúp nước ta phát triển bứt phá;
iii) đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn,
thay đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, phát triển nền nông nghiệp sản
xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, quy trình sản xuất khoa học,
kết nối sản xuất với bảo quản, chế biến và hệ thống phân phối; có năng
suất, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm; khuyến
khích các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, tham gia vào lĩnh
vực này.
Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các nước đã từng thực hiện công nghiệp hóa thành công đều dựa
trên phát triển một nền kinh tế thị trường hiện đại. Quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta gắn với việc xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có
sự quản lý của nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”
Cần đổi mới, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách khuyến
khích phát triển và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; xây dựng và phát triển đồng bộ các
loại thị trường, xóa bỏ độc quyền, cơ chế “xin-cho”... để phát huy đầy
đủ vai trò của cơ chế thị trường trong huy động và phân bổ các nguồn lực
phát triển cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo động lực phát triển
cho doanh nghiệp và đánh giá, sàng lọc, đào thải những doanh nghiệp yếu
kém.
Nhà nước tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh tế thuận lợi, công
khai, minh bạch cho doanh nghiệp hoạt động, cạnh tranh bình đẳng; khắc
phục những khiếm khuyết của thị trường; khuyến khích, hỗ trợ doanh
nghiệp đổi mới khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, thúc đẩy sáng tạo, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
định hướng phát triển và tạo đột phá ở một số ngành và vùng lãnh thổ.
Các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phù hợp với cơ chế thị trường nhằm cung cấp những hàng hóa và dịch vụ
công thực sự quan trọng. Sự kết hợp hài hòa, hiệu quả vai trò của nhà
nước và thị trường là yếu tố quan trọng để rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hạn chế những rủi ro và chia sẻ các thành quả
của quá trình này cho mọi tầng lớp trong xã hội.
Đột phá phát triển khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Tri thức và sáng
tạo là những yếu tố quyết định sự thành công của quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay. Vì vậy, chúng ta cần làm cho khoa
học công nghệ và giáo dục đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu, là động
lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, phát
triển kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
Cần xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia dựa trên phát huy năng
lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức; có chính sách
khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, ứng dụng công
nghệ tiên tiến.
Cần có cơ chế đặc thù để phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học, công
nghệ trọng điểm quốc gia theo mô hình tiên tiến; hình thành các trung
tâm nghiên cứu và triển khai của các ngành, lĩnh vực; thúc đẩy sự hợp
tác giữa các trung tâm đổi mới sáng tạo, các nhà nghiên cứu và người sử
dụng.
Khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, thực hiện nghiên cứu phát triển
và ứng dụng khoa học, công nghệ, sử dụng mô hình quản lý hiện đại nhằm
nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng trực tiếp tạo ra tri thức và
sáng tạo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đổi
mới mạnh mẽ và đồng bộ giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục đại học và
đào tạo nghề; cần quan tâm khuyến khích đầu tư phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, tận dụng có hiệu quả lợi thế cơ cấu “dân số vàng” để
bứt phá phát triển, tránh nguy cơ “chưa giàu đã già;” gắn đào tạo với
nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đồng thời gắn với nhu cầu
của thị trường và doanh nghiệp.
Chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp giỏi,
chuyên gia khoa học, công nghệ đầu đàn và lao động có tay nghề cao. Chú
trọng phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng và phát huy nhân tài. Phát huy tư
duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu ở bậc đại học và sau đại học.
Khuyến khích và thu hút các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài
và người nước ngoài tham gia hoạt động khoa học, công nghệ ở Việt Nam.
Tăng cường đầu tư cho đội ngũ chuyên gia thiết kế sản phẩm, nghiên cứu,
phát triển các lĩnh vực công nghệ cao, các ngành nghề mới, có khả năng
tạo ra sự lan tỏa và tác động lớn đến phát triển kinh tế-xã hội. Thực
hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực
công nghiệp mũi nhọn. Xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng
lực thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, tinh thần thượng tôn pháp
luật và trách nhiệm công dân, tác phong công nghiệp của người lao động.
Kết cấu hạ tầng hiện đại là nền tảng và tiền đề cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ hiện
đang là yêu cầu cấp thiết để giải quyết một trong những điểm nghẽn trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Cần đẩy nhanh việc hoàn
thiện quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước.
Tiếp tục tập trung nguồn lực đầu tư cho các công trình giao thông lớn,
quan trọng, bảo đảm kết nối thông suốt giữa các trung tâm kinh tế lớn,
các đầu mối giao thương. Ưu tiên các tuyến phát triển trọng điểm, trục
giao thông Bắc - Nam, các hành lang kinh tế Đông-Tây, các sân bay, cảng
biển trọng yếu. Phát triển nhanh nguồn điện, hoàn chỉnh lại hệ thống
lưới điện, bảo đảm cung cấp đủ điện cho yêu cầu phát triển.
Quan tâm phát triển đồng bộ các công trình thủy lợi, xây dựng thêm hồ ở
các vùng thường xuyên bị khô hạn, đảm bảo nước cho sản xuất và đời sống;
xây dựng, củng cố hệ thống đê sông, đê biển, các công trình phòng chống
thiên tai, các khu vực neo đậu tàu, thuyền cho ngư dân. Hiện đại hóa
ngành thông tin, truyền thông và hệ thống công nghệ thông tin.
Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện
đại, chú trọng hệ thống công trình cấp, thoát nước, các công trình xử lý
chất thải. Nâng cao chất lượng và quản lý tốt quy hoạch đô thị. Hoàn
thiện hạ tầng khu công nghiệp đáp ứng yêu cầu sản xuất và bảo vệ môi
trường.
Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm thể
chế phát triển vùng có tính đột phá. Để thực thi tầm nhìn này, cần hoàn
thiện pháp luật và cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho các
thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia đầu tư, xây dựng, vận hành,
kinh doanh kết cấu hạ tầng thông qua các hình thức hợp tác công-tư đa
dạng. (BOT, BT...)
Chủ động hội nhập quốc tế để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
tận dụng được cơ hội từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, gắn với
việc tham gia vào nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị và mạng sản xuất
toàn cầu, cải thiện vị thế và sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp và
từng ngành kinh tế của nước ta trên thị trường thế giới; đồng thời, phải
chủ động phòng ngừa, giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội
nhập quốc tế với nền kinh tế đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ.
Việc tiếp tục mở rộng đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do
song phương, đa phương thế hệ mới phải đi đôi với việc tích cực chuẩn bị
kỹ, đầy đủ cho việc thực hiện có hiệu quả các hiệp định đã ký kết; khai
thác có hiệu quả việc mở rộng thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hóa, dịch vụ, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài và thu hút các nguồn lực
về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến từ các nước để
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đồng thời, phải chuẩn bị lực lượng để cạnh tranh thắng lợi trên sân nhà
khi mở cửa thị trường cho các đối tác nước ngoài. Yếu tố quyết định là
phải nâng cao nội lực của đất nước.
Cần tăng cường công tác tuyên truyền để các ngành, các địa phương, cộng
đồng doanh nghiệp và nhân dân có sự chuẩn bị tốt, hội nhập thành công.
Cần có chiến lược cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia, chiến lược cạnh
tranh của từng ngành, lĩnh vực, của các sản phẩm, nhất là những sản phẩm
quan trọng, của mọi doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp lớn của
nền kinh tế.
Nền tảng và then chốt của chiến lược cạnh tranh trong hội nhập quốc tế
phải dựa trên đổi mới và sáng tạo với những trụ cột là khoa học công
nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và hệ thống thể chế hiện đại. Nhà
nước cần những chính sách cụ thể để giúp các doanh nghiệp nâng cao khả
năng cạnh tranh bằng việc ứng dụng khoa học công nghệ và giảm các chi
phí giao dịch trung gian.
Việc thu hút đầu tư nước ngoài cần theo hướng chọn lọc, ưu tiên các tập
đoàn đa quốc gia dẫn dắt các chuỗi giá trị toàn cầu trong các lĩnh vực
công nghệ, có thể tạo ra sự lan tỏa về công nghệ, phát triển nguồn nhân
lực và kỹ năng quản lý tiên tiến.
Cải cách hệ thống quản trị quốc gia một cách toàn diện và sâu sắc. Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần đi cùng với việc xây dựng một nền
quản trị quốc gia theo chuẩn mực của một nước công nghiệp hiện đại.
Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục đổi mới tư duy và cách thức tiến hành đổi
mới bộ máy nhà nước để hướng tới có một nền quản trị quốc gia hiện đại,
bao gồm:
i) đổi mới, hoàn thiện hệ thống thể chế luật pháp, cơ chế, chính sách,
quy định theo những chuẩn mực quản trị hiện đại, nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế;
ii) hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước các cấp theo hướng thật
sự tinh gọn; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của từng cơ
quan ở các cấp, các ngành, các địa phương; tăng cường công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình, đảm bảo hiệu lực và hiệu quả quản lý ở
các cấp; có cơ chế giám sát chặt chẽ, có hiệu quả thật sự và chế tài xử
phạt nghiêm khắc hơn nữa nhằm phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, cửa quyền, lợi ích nhóm; luật hóa sự tham gia của người dân trong
phản biện chính sách, kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước; xây dựng nhà nước có vai trò thúc đẩy và hỗ trợ phát triển,
khuyến khích và nuôi dưỡng sáng tạo, có bộ máy hành chính hiện đại, hoạt
động hiệu quả và luôn hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, thật sự là nhà
nước của dân và vì dân; tách dịch vụ công khỏi hệ thống hành chính nhà
nước, loại bỏ tính ỷ lại và cơ chế “xin-cho”;
iii) xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tinh gọn, chuyên nghiệp, có
phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân;
iv)
thúc đẩy xây dựng Chính phủ và hệ thống chính quyền điện tử như là một
công cụ hữu hiệu giúp tăng cường tính minh bạch và công bằng, ngăn ngừa
tham nhũng cũng như nâng cao chất lượng của dịch vụ công, thực thi các
giải pháp quản trị sáng tạo để phát triển các hình thức hợp tác công-tư
trong đầu tư...
Một nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, khuyến khích và nuôi dưỡng
sáng tạo là nền tảng thành công cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước ta trong điều kiện mới.
Đứng trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình trong nước và quốc
tế, với quyết tâm chính trị cao, thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ,
phát triển sáng tạo, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, chúng ta
nhất định sẽ tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, sớm đạt được mục
tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại./.
Trương Tấn Sang
Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam