Thứ Sáu, 22/11/2024
Biển và Hải đảo Việt Nam
Thứ Sáu, 2/12/2016 15:39'(GMT+7)

Xây dựng khoa học công nghệ tương xứng với tiềm năng biển


Các kết quả nghiên cứu và ứng dụng đã góp phần tích cực phát triển kinh tế, phòng tránh thiên tai, bảo vệ tài nguyên và môi trường, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên trên biển. Tuy vậy, bên cạnh các thành tựu vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục và cần có sự quan tâm đặc biệt mới có thể đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. 

* Những kết quả đạt được 

Theo Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Thạnh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, hoạt động khoa học và công nghệ biển đã phát hiện và làm rõ các đặc trưng cơ bản về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường biển đảo Việt Nam. Đặc biệt là tạo dựng hệ thống số liệu về điều kiện tự nhiên địa hình - địa mạo, địa chất, khí tượng, hải văn, các hệ sinh thái và sinh vật biển đảo; làm sáng tỏ các mối tương tác và các quá trình động lực đặc trưng cho vùng biển rìa nhiệt đới gió mùa. Hình thái bờ biển, đáy biển và các đảo, đặc điểm cấu trúc và lịch sử phát triển địa hình các vùng thềm lục địa, sườn lục địa và chân sườn; cấu tạo các bồn trũng Kainozoi có tiềm năng dầu khí. 

Đồng thời, hoạt động này đã làm rõ tiềm năng, dự báo triển vọng và định hướng tìm kiếm khoáng sản biển, nhất là dầu mỏ, khí đốt và hydrate; năng lượng biển (nhiệt, gió, sóng, thủy triều và sinh khối...); tiềm năng sử dụng nước và đất ngập nước ven bờ. Hệ thống các hệ sinh thái biển, vùng bờ biển và hải đảo với trên 12.000 loài, phân bố của các khu hệ sinh vật, những đặc trưng cơ bản về đa dạng sinh học và một số quá trình sinh học, năng suất sinh học các vùng biển. Trữ lượng, phân bố, diễn biến tài nguyên sinh vật biển, nguồn lợi thủy sản và nguy cơ đe dọa; nguồn lợi đặc sản và các giá trị bảo tồn tự nhiên. Mặt khác đã đạt được một số kết quả nghiên cứu mới về cơ sở khoa học và khả năng ứng dụng thực tiễn của tài nguyên vị thế biển, kỳ quan địa chất và sinh thái biển. Qua đó, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế - dân sinh biển, vùng ven bờ biển và hải đảo Việt Nam. 

Những đóng góp của hoạt động khoa học và công nghệ biển tiêu biểu như việc triển khai và ứng dụng lĩnh vực ăn mòn vật liệu trong môi trường biển, các đặc trưng kỹ thuật, quy phạm công trình thềm lục địa; độ an toàn và tuổi thọ công trình biển; khai thác và vận chuyển an toàn dầu thô...; phát triển hệ thống cảng biển; hâng cao hiệu quả đánh bắt xa bờ; hạn chế đánh bắt quá mức ven bờ; bảo vệ và phát triển nguồn lợi nuôi trồng như: cải tạo và bảo vệ môi trường nuôi, xử lý ô nhiễm, công nghệ nuôi, sinh sản nhân tạo, di giống, nhân giống và phát triển một số đặc sản có giá trị kinh tế cao. H oạt động khoa học và công nghệ biển góp phần tạo thêm việc làm, sản phẩm tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. 

Các kết quả nghiên cứu được sử dụng làm cơ sở khoa học để đàm phán, đấu tranh phân định ranh giới trên biển và xác định chủ quyền lãnh hải, nhất là đối với Vịnh Bắc Bộ, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vùng cửa sông Bắc Luân. Các tờ bản đồ địa hình trên vùng biển Trường Sa và Hoàng Sa được biên vẽ theo phân công của tổ chức IOCYWESTPAC (Hải dương học liên chính phủ khu vực Tây Thái Bình Dương), góp phần khẳng định chủ quyền và sự công nhận quốc tế đối với các vùng biển-đảo này của Việt Nam. Tài liệu về hình thái địa hình, cấu trúc địa chất biển là căn cứ khoa học quan trọng góp phần ranh giới ngoài thềm lục địa, giúp đàm phán xác định chủ quyền trên biển. Nhiều nghiên cứu đã hỗ trợ kỹ thuật, cải thiện môi trường sống của bộ đội, nhân dân trên các đảo. 

* Giải pháp hướng tới một thương hiệu 

Tiến sĩ Trần Đình Lân, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho rằng, các công trình nghiên cứu có chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ biển của nước ta còn rất hạn chế, chất lượng thấp khá phổ biến. Phần nhiều các nghiên cứu có điều kiện phương tiện và thiết bị khảo sát cũ, hệ thống chuỗi số liệu khảo sát thiếu đồng bộ, thiếu số lượng cần thiết do hạn chế về thời gian thực hiện và kinh phí đầu tư. Hiệu quả ứng dụng thực tiễn chưa cao, không ít công trình bị lãng quên theo thời gian, nhiều công trình nghiên cứu có số lượng công bố trong và ngoài nước rất hạn chế, không tương xứng với đầu tư và quy mô nghiên cứu. 

Trong hội nhập quốc tế, xây dựng một thương hiệu về khoa học và công nghệ biển Việt Nam là điều rất cần thiết để tạo nên một nền tảng tin cậy cho hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và phát triển hòa bình, hữu nghị. Tuy vậy, để có một thương hiệu thực sự không phải một sớm một chiều, nhưng nếu không có một sự chuẩn bị tích cực ngay từ bây giờ thì mãi mãi chỉ là một ước muốn. Do đó, để hướng tới một thương hiệu khoa học công nghệ biển Việt Nam yêu cầu hoạt động khoa học và công nghệ biển phải đủ uy tín để đóng góp kinh nghiệm, chia sẻ thông tin, nâng cao hiểu biết, năng lực và trình độ điều tra, nghiên cứu biển của Việt Nam với các nước trong bối cảnh hoà nhập quốc tế, đưa vị thế của Việt Nam ngang tầm khu vực và quốc tế.
 
Khoa học và công nghệ biển phải là nền tảng vững chắc góp phần thực hiện thành công chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội; chiến lược biển quốc gia và đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam; thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của Việt Nam trong việc tham gia các tổ chức và điều ước khu vực, quốc tế về biển. Khoa học và công nghệ biển trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, bảo tồn tự nhiên, ngăn ngừa và phòng chống thiên tai, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Mặt khác, hoạt động khoa học và công nghệ biển là một cầu nối tăng cường quan hệ hữu nghị, thân thiện giữa các nước trong khu vực trong lĩnh vực nghiên cứu này; khai thác tài nguyên biển trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lợi ích, chủ quyền lãnh hải và tôn trọng luật pháp quốc tế, góp phần giải quyết tranh chấp trên biển. 

Để thực sự trở thành một động lực phát triển kinh tế biển, góp phần cho đảm bảo an ninh quốc phòng, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển, đồng thời tạo nên một thương hiệu khoa học và công nghệ trong hội nhập quốc tế, trước hết cần phải xây dựng chiến lược xác định quy mô và tầm vóc của các hoạt động nghiên cứu ứng dụng và triển khai công nghệ, các vấn đề ưu tiên, lộ trình các bước và giải pháp thực hiện để phát triển các ngành khoa học kỹ thuật quan trọng. Qua đó phát hiện, đánh giá, khai thác, bảo vệ, phát triển tài nguyên, bảo tồn tự nhiên, bảo vệ môi trường, ngăn ngừa và phòng tránh thiên tai, kết hợp phục vụ kinh tế với đảm bảo chủ quyền và an ninh quốc phòng. 

Chiến lược cho phép ưu tiên tiếp cận công nghệ cao và hiện đại, ưu tiên nghiên cứu ứng dụng cho các vùng biển sâu, biển xa, ưu tiên và định khung cho các hoạt động hợp tác quốc tế trên biển. Như vậy, hoạt động khoa học và công nghệ biển cần có những chính sách ưu tiên đặc biệt và có quan hệ mật thiết với Luật Khoa học và công nghệ, Luật Biển Việt Nam và một số luật khác rất cần được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện để tạo ra khung pháp lý thuận lợi. Những điểm nổi bật cần chú ý đến về phương diện này là chính sách sử dụng nhân lực; ưu đãi và trọng dụng cán bộ khoa học; tôn vinh người có tài năng; đổi mới chính sách đầu tư và cơ chế tài chính; chính sách và cơ chế xã hội hoá nguồn tài chính; nghiên cứu triển khai và ứng dụng công nghệ ở các địa phương, các tập đoàn và cơ sở sản xuất. 

Bên cạnh đó, phải nhanh chóng đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động khoa học và công nghệ biển, trọng tâm là giám sát, đánh giá kết quả và hiệu quả nghiên cứu thông qua các sản phẩm đạt được, hơn là những đòi hỏi khắt khe về thủ tục tài chính. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực bằng giải pháp đào tạo trong và ngoài nước, cơ cấu ngành nghề đào tạo hợp lý và ưu tiên đào tạo trình độ cao. Đầu tư xây dựng một số viện, trung tâm nghiên cứu biển mạnh xứng tầm quốc gia và khu vực, có trách nhiệm và đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ chiến lược và có khả năng giải quyết các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong các tình huống đột xuất. 

Đẩy mạnh điều tra nghiên cứu và ứng dụng theo các hướng trọng điểm và ưu tiên, nhằm phát hiện và đánh giá các dạng tài nguyên mới như băng cháy, tài nguyên vị thế, năng lượng sạch và tái tạo. Các giá trị mới của tài nguyên như dược liệu biển và hóa phẩm biển; ưu tiên thăm dò và khai thác vùng biển sâu và biển xa; sử dụng tài nguyên vị thế cho kinh tế dịch vụ biển như du lịch, giao thông, cảng và viễn thông. 

Phát triển công nghệ giám sát và dự báo biển, dự báo nghề cá biển bằng viễn thám, dự báo khí tượng - thuỷ văn và dông bão thời hạn ngắn, các tai biến như động đất - sóng thần, xói lở, sa bồi, thuỷ triều đỏ, tràn dầu và hoá chất, biến đổi khí hậu và dâng cao mực biển; phát triển công nghệ định vị và dẫn đường trên biển. Gắn kết nghiên cứu khoa học và công nghệ biển phục vụ kinh tế - dân sinh với đảm bảo an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia trên vùng biển đảo; tận dụng và kết hợp phương tiện hải quân để nghiên cứu biển. 

Tăng cường hợp tác quốc tế để học tập kinh nghiệm, tiếp cận các phương pháp và thiết bị nghiên cứu mới và hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu, đào tạo cán bộ trẻ và cán bộ có trình độ cao; cùng giải quyết những vấn đề xuyên lãnh hải và những quan tâm chung về biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, bảo tồn biển phục vụ cho phát triển bền vững; hoà nhập, phát triển quan hệ hữu nghị, thân thiện và thực hiện trách nhiệm thi các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia liên quan đến biển./. 

Văn Hào/TTXVN

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất