Thường trực Chính phủ đánh
giá cao Bộ Giao thông vận tải đã rất nỗ lực triển khai các công việc,
nhiệm vụ được giao, đạt nhiều kết quả tích cực, trong đó đã hoàn thành 5
quy hoạch ngành, triển khai quyết liệt các dự án đường cao tốc, giải
ngân tốt vốn đầu tư công.
Thường trực Chính phủ yêu cầu Bộ Giao thông vận tải tiếp tục bám sát
Nghị quyết của Trung ương Đảng, Kết luận của Bộ Chính trị, Nghị quyết
của Quốc hội và tiếp thu ý kiến của các bộ, cơ quan dự họp, khẩn trương
hoàn thiện Đề án; trong đó, lưu ý một số vấn đề về quan điểm, xây dựng
tuyến đường sắt tốc độ cao phải bảo đảm yếu tố hiện đại, đồng bộ, bền
vững theo đúng chủ trương của Bộ Chính trị tại Kết luận số 49-KL/TW.
Nghiên cứu đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao phải đặt trong tổng thể
phát triển quy hoạch, dự báo chiến lược về nhu cầu của cả 5 phương thức
giao thông: Hàng không, đường bộ, đường sắt, hàng hải, đường thủy nội
địa trong dài hạn. Phân tích lợi thế của từng phương thức, qua đó làm rõ
ưu điểm của vận tải đường sắt tốc độ cao là tập trung vào vận chuyển
hành khách, tương hỗ với vận tải hàng không, chỉ vận chuyển hàng hóa
trong trường hợp cần thiết. Vận chuyển hàng hóa chủ yếu tập trung: Đường
sắt hiện tại; hàng hải; vận tải thủy ven bờ; đường bộ. Trên cơ sở đó,
đánh giá, giải trình thuyết phục việc đề xuất phương án đầu tư. Phạm vi
nghiên cứu: Nghiên cứu việc mở rộng phạm vi thêm đoạn tuyến Thành phố Hồ
Chí Minh - Cần Thơ.
Về kịch bản đầu tư, Thường trực Chính phủ yêu cầu Bộ Giao thông vận tải
tiếp tục nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng, lấy ý kiến chuyên gia rộng rãi
để lựa chọn phương án phù hợp nhất (so sánh phương án đồng thời vận tải
hành khách và vận tải hàng hóa; phương án chỉ vận tải hành khách); tuyến
đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam vận tải hành khách, còn hàng
hóa chủ yếu vận tải bằng đường biển (cảng biển, bến thủy nội địa) và
nâng cấp tuyến đường sắt hiện có.
Về hướng tuyến, Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, rà soát kỹ hướng tuyến
để bảo đảm hướng tuyến thẳng nhất có thể, đồng thời tạo không gian mới.
Nghiên cứu thêm việc giảm số lượng ga để giảm chi phí.
Về giải pháp, hoàn thiện cơ chế, chính sách theo đúng tinh thần Kết luận
số 49-KL/TW. Tập trung hoàn thiện thể chế, trong đó bao gồm Luật Đường
sắt sửa đổi, quy định về đường sắt tốc độ cao; cơ chế huy động nguồn lực
(ngân sách nhà nước là chính nhưng cần tổng hợp các nguồn lực với việc
kết hợp nguồn thu từ giá trị gia tăng phát triển đô thị, kêu gọi xã hội
hóa, thu hút vốn tư nhân đầu tư đầu máy, toa xe...); cơ chế giải phóng
mặt bằng, khai thác mỏ nguyên vật liệu...; tái cơ cấu Tổng Công ty Đường
sắt Việt Nam bảo đảm năng lực thực hiện quản lý, vận hành, khai thác
đường sắt tốc độ cao.
THÀNH LẬP TỔ CÔNG TÁC TRIỂN KHAI DỰ ÁN ĐƯỜNG SẮT TỐC ĐỘ CAO TRÊN TRỤC BẮC - NAM
Thường trực Chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải khẩn trương phối hợp
với Văn phòng Chính phủ nghiên cứu thành lập Tổ công tác triển khai Dự
án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam do Phó Thủ tướng Chính phủ
Trần Hồng Hà làm Tổ trưởng; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải làm Tổ phó;
đại diện lãnh đạo các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công Thương,
Xây dựng, Tư pháp, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Giáo dục và Đào tạo làm thành viên. Tổ công tác có quy chế
làm việc, dự kiến 01 tháng họp 01 lần để kịp thời xử lý, thúc đẩy công
tác chuẩn bị, thực hiện Dự án.
Các bộ, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, chủ động triển
khai các nội dung có liên quan; trong đó, tập trung một số vấn đề trọng
tâm.
Theo đó, Bộ Giao thông vận tải tiếp tục lấy ý kiến các chuyên gia, nhà
khoa học, các cán bộ kinh nghiệm trong ngành đường sắt về nhiều phương
án để lựa chọn một phương án tối ưu trình Bộ Chính trị. Khẩn trương hoàn
thiện Đề án, trình Thường trực Chính phủ, trình Bộ Chính trị trong
tháng 3 năm 2024. Khẩn trương hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi
Dự án, trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư trong năm
2024.
Bộ Giao thông vận tải rà soát hoàn thiện thể chế, hệ thống định mức,
tiêu chuẩn… để kịp thời sửa đổi, bổ sung tạo hành lang pháp lý thuận lợi
cho quá trình phát triển đường sắt nói chung và đường sắt tốc độ cao
nói riêng; xây dựng, triển khai đề án về mô hình tổ chức, quản lý khai
thác đường sắt quốc gia (trong đó có đường sắt tốc độ cao). Bộ Giao
thông vận tải chủ động phối hợp với các bộ, ngành địa phương chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để chuẩn bị triển khai đầu tư xây dựng, tiếp
nhận chuyển giao công nghệ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Xây dựng kế
hoạch đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực đường sắt.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư với vai trò Cơ quan thường trực Hội đồng thẩm định
nhà nước, tiếp tục triển khai các thủ tục để sớm hoàn thành thẩm định
báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án theo quy định; phối hợp với Bộ
Giao thông vận tải chủ động xây dựng phương án hợp tác với các nhà tài
trợ nước ngoài để huy động nguồn vốn phù hợp cho Dự án; cân đối bố trí
kế hoạch vốn trung hạn và hàng năm đáp ứng nhu cầu triển khai Dự án.
Bộ Tài chính chủ trì tính toán tác động của việc đầu tư Dự án đến nợ
công; ưu tiên phân bổ dự toán ngân sách nhà nước hàng năm để phát triển
khoa học, công nghệ trong lĩnh vực đường sắt; phối hợp với Bộ Giao thông
vận tải phân tích mô hình tài chính của Dự án.
Bộ Xây dựng rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật hoặc hướng
dẫn trình tự, thủ tục để đẩy nhanh tiến độ, rút ngắn thủ tục đầu tư xây
dựng.
Bộ Công Thương xây dựng, triển khai đề án phát triển công nghiệp đường
sắt và công nghiệp phụ trợ bảo đảm đồng bộ với các ngành công nghiệp
khác.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo đẩy
mạnh hoạt động nghiên cứu, đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực đường sắt để
cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ nhu cầu phát triển; xây
dựng kế hoạch hợp tác với các nước để phối hợp đào tạo nguồn nhân lực;
nghiên cứu xây dựng, thành lập các cơ sở đào tạo nghề nghiệp trong lĩnh
vực đường sắt.
Bộ Thông tin và Truyền thông đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đầu tư phát
triển giao thông vận tải đường sắt, nhất là việc triển khai xây dựng
đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Bộ Ngoại giao chủ động làm việc với các đối tác nước ngoài để kêu gọi đầu tư chuyển giao công nghệ xây dựng Dự án.
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối
hợp với Bộ Giao thông vận tải trong công tác giải phóng mặt bằng và
khai thác mỏ vật liệu phục vụ Dự án.
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý chặt chẽ quỹ đất
đã thỏa thuận với Bộ Giao thông vận tải để tạo thuận lợi trong quá trình
triển khai Dự án. Ưu tiên bố trí quỹ đất quanh khu vực ga để phát triển
các khu đô thị, khu chức năng theo mô hình TOD.
ĐẦU TƯ MỘT SỐ TUYẾN ĐƯỜNG SẮT QUỐC GIA KHÁC
Thường trực Chính phủ yêu cầu Bộ Giao thông
vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan
khẩn trương làm việc với phía Trung Quốc để thống nhất biên bản ghi nhớ,
phương án hỗ trợ, hợp tác đầu tư về 3 tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội -
Hải Phòng, Hà Nội - Đồng Đăng, Hạ Long - Móng Cái (tuyến đường sắt ven
biển Nam Định - Thái Bình - Quảng Ninh kéo dài).
Cần sớm đầu tư các tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Đồng
Đăng, Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng, kết hợp vận tải hàng hóa và hành
khách; tuyến Cần Thơ - Thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu là hành khách.
Trước mắt cần tập trung đầu tư các tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng
(phấn đấu khởi công trong năm 2025), nghiên cứu phương án sử dụng vốn
vay ưu đãi nước ngoài (xác định rõ: lãi suất vay ưu đãi, giá trị vay và
thời gian vay) và phương án phát hành trái phiếu để đầu tư.
Sớm khởi động lại để triển khai đầu tư hoàn thành tuyến đường sắt Yên
Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân theo đúng Kết luận số 49-KL/TW của Bộ
Chính trị./.
TTXVN