Từ ngày 1/1/2016, 10 luật sẽ có hiệu lực. Đó là các Luật hộ tịch; Luật
căn cước công dân; Luật tổ chức Quốc hội; Luật tổ chức Chính phủ; Luật
tổ chức chính quyền địa phương; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Luật
thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật bảo hiểm xã hội; Luật kiểm toán Nhà nước;
Luật nghĩa vụ quân sự.
Bảo đảm lợi ích của người dân, tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch
Luật hộ tịch gồm 7 chương và 77 điều, chủ yếu luật hóa các quy định hiện
hành (trong các Nghị định của Chính phủ, Thông tư, Thông tư liên tịch
của Bộ, liên Bộ) đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đồng thời quy định một
số nội dung mới theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch,
hiện đại gắn kết với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký,
quản lý hộ tịch, nhằm bảo đảm lợi ích của người dân và tăng cường quản
lý Nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch.
Luật đề cao tầm quan trọng của việc đăng ký khai sinh và cấp Giấy khai
sinh, đồng thời quy định việc cấp Số định danh cá nhân khi đăng ký khai
sinh. Số định danh cá nhân là số được cấp cho mỗi công dân Việt Nam,
không lặp lại ở người khác. Số này cũng chính là số thẻ căn cước công
dân được cấp khi đủ 14 tuổi.
Luật quy định xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử để lưu giữ thông
tin hộ tịch của cá nhân (song song với cơ sở dữ liệu giấy); đồng thời
kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Luật mở ra cơ hội cho người dân có quyền lựa chọn phương thức phù hợp,
thuận tiện nhất để thực hiện yêu cầu đăng ký hộ tịch như việc gửi hồ sơ
trực tiếp, qua bưu chính hoặc thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến
trong điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho phép.
Cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà không phải phụ thuộc vào nơi cư trú trước đây.
Luật quy định rõ, miễn phí đăng ký hộ tịch cho người thuộc gia đình có
công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, người khuyết tật.
Với quan điểm thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương, cơ sở,
Luật quy định Ủy ban Nhân dân cấp huyện giải quyết toàn bộ các việc
đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài và thay đổi, cải chính hộ tịch cho
người từ đủ 14 tuổi trở lên, trừ việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh
tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thường trú ở khu vực
biên giới còn người kia là công dân của nước láng giềng thường trú tại
khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân
Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng
thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, khai tử cho người nước
ngoài cư trú ổn định, lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam.
Ủy ban Nhân dân cấp xã đăng ký các việc hộ tịch còn lại. Thủ tục đăng ký
hộ tịch được quy định theo hướng đơn giản, cắt giảm tối đa những giấy
tờ không cần thiết.
Bảo đảm hiện đại hóa giấy tờ về căn cước công dân
Luật căn cước công dân quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở
dữ liệu căn cước công dân; thẻ căn cước công dân và quản lý thẻ căn cước
công dân; bảo đảm điều kiện cho hoạt động quản lý căn cước công dân, cơ
sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu căn cước công dân; trách
nhiệm quản lý căn cước công dân, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ
sở dữ liệu căn cước công dân. Luật có 6 chương, 39 điều.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là tài sản quốc gia, được nhà nước bảo
vệ theo quy định của pháp luật về bảo vệ công trình quan trọng liên quan
đến an ninh quốc gia. Đây là cơ sở dữ liệu chung do Bộ Công an quản lý,
tập hợp thông tin cơ bản của tất cả công dân Việt Nam (gồm 15 trường
thông tin). Thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là căn cứ
để cơ quan, tổ chức kiểm tra, thống nhất thông tin về công dân.
Số định danh cá nhân được xác lập từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư
dùng để kết nối, cập nhật, chia sẻ, khai thác thông tin của công dân
trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên
ngành. Số định danh cá nhân do Bộ Công an thống nhất quản lý trên toàn
quốc và cấp cho mỗi công dân Việt Nam, không lặp lại của người khác.
Luật lấy tên gọi của giấy tờ về căn cước công dân là thẻ Căn cước công
dân để thay thế cho tên gọi “Chứng minh nhân dân” như hiện nay. Công dân
từ đủ 14 tuổi được cấp thẻ Căn cước công dân. Thẻ có giá trị chứng minh
về căn cước công dân của người được cấp thẻ để thực hiện các giao dịch
trên lãnh thổ Việt Nam và được dùng thay thế cho việc sử dụng hộ chiếu
trong trường hợp Việt Nam và nước ngoài ký kết điều ước hoặc thỏa thuận
quốc tế cho phép công dân nước ký kết được sử dụng thẻ Căn cước công dân
thay cho việc sử dụng hộ chiếu trên lãnh thổ của nhau.
Chứng minh nhân dân đã được cấp trước ngày luật có hiệu lực vẫn có giá
trị sử dụng đến hết thời hạn quy định. Các giấy tờ có giá trị pháp lý đã
phát hành có sử dụng thông tin từ chứng minh nhân dân vẫn nguyên hiệu
lực pháp luật. Các biểu mẫu đã phát hành có sử dụng thông tin từ chứng
minh nhân dân được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2019.
Địa phương chưa có điều kiện về cơ sở hạ tầng thông tin, vật chất, kỹ
thuật và người quản lý căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân
cư và Cơ sở dữ liệu căn cước công dân để triển khai thi hành theo Luật
thì công tác quản lý công dân vẫn thực hiện theo các quy định của pháp
luật trước ngày Luật có hiệu lực; chậm nhất từ ngày 1/1/2020 phải thực
hiện thống nhất theo quy định của Luật.
Khẳng định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Quốc hội tiếp
tục khẳng định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và
mối quan hệ giữa Quốc hội với các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước
trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Luật cụ thể hóa
các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội tại 16 điều luật tương ứng với 3
chức năng lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước đã được ghi nhận tại Hiến pháp.
Luật có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý cho đại
biểu Quốc hội thực hiện vai trò trung tâm của mình trong tổ chức và
hoạt động của Quốc hội; tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò, chức năng
và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định của Hiến
pháp.
Đồng thời, Luật kế thừa số lượng, tên gọi của Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội như Luật cũ; sửa đổi quy định về cơ cấu tổ chức và việc
bầu, phê chuẩn các thành viên của Hội đồng, Ủy ban cho phù hợp với Hiến
pháp mới.
Luật xác lập chức danh Tổng Thư ký Quốc hội thay thế cho Đoàn thư ký kỳ
họp. Tổng Thư ký Quốc hội do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Tổng
Thư ký có trách nhiệm tham mưu, phục vụ hoạt động của Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội và thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho
Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự kiến chương trình
làm việc của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tổng Thư ký là người phát ngôn của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Giúp việc cho Tổng Thư ký Quốc hội có Ban Thư ký. Cơ cấu, tổ chức, nhiệm
vụ, quyền hạn cụ thể của Ban Thư ký do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định. Luật tổ chức Quốc hội gồm 7 chương, 102 điều.
Thúc đẩy cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ
Với 7 chương, 50 điều, Luật tổ chức Chính phủ quy định vị trí, chức năng
của Chính phủ; cơ cấu tổ chức và thành viên của Chính phủ; nhiệm kỳ của
Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ; nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Chính phủ.
Về nhiệm vụ, quyền hạn hành pháp của Chính phủ, Luật khẳng định mạnh mẽ,
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong tổ chức thi
hành Hiến pháp và pháp luật, thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm hành pháp
của Chính phủ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, coi pháp
luật là công cụ quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động quản lý điều
hành của bộ máy hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, Luật cụ thể hóa thẩm
quyền hoạch định chính sách của Chính phủ.
Luật có một bước tiến quan trọng khi khẳng định đầy đủ và rõ hơn vị trí
của Thủ tướng Chính phủ là “người đứng đầu Chính phủ và hệ thống hành
chính Nhà nước”; thể hiện ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát huy vai
trò, trách nhiệm của Thủ tướng trong lãnh đạo và điều hành hoạt động,
bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của Chính phủ và hệ thống hành chính
Nhà nước.
Luật không chỉ chuyển những nhiệm vụ, quyền hạn liên quan của Chính phủ
sang cho Thủ tướng thực hiện, mà còn bổ sung một số nhiệm vụ mới cho Thủ
tướng Chính phủ nhằm đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu hệ
thống hành chính trong việc đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ
luật kỷ cương, xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục,
dân chủ, hiện đại, phục vụ nhân dân.
Tinh giản tổ chức bộ máy theo tinh thần cải cách hành chính lần đầu tiên
trở thành giải pháp lập pháp. Luật quy định cụ thể về số lượng cấp phó
và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ, tạo khuôn khổ thể chế vững
chắc thúc đẩy cải cách tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức làm việc của
cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương.
Gắn kết, thống nhất giữa Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân cùng cấp trong chỉnh thể chính quyền địa phương
Luật tổ chức chính quyền địa phương gồm 8 chương và 143 điều, tăng 2
chương, 3 điều so với Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân
năm 2013. Luật xác định các đơn vị hành chính gồm có tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; xã, phường, thị trấn và đơn
vị hành chính-kinh tế đặc biệt.
Luật quy định rõ hơn về cơ cấu tổ chức của Hội đồng Nhân dân tạo cơ sở
pháp lý để củng cố, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động. Về cơ cấu tổ chức, Luật quy định Hội đồng Nhân dân thành phố
trực thuộc Trung ương được thành lập thêm Ban đô thị, vì đây là những đô
thị tập trung, có quy mô lớn, mức độ đô thị hóa cao và có nhiều điểm
đặc thù khác với các địa bàn đô thị thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Về số
lượng đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh từ 95 đại biểu lên 105 đại biểu để phù hợp với quy mô dân số, đặc
điểm, tính chất của các đô thị lớn này.
Luật mở rộng cơ cấu tổ chức Ủy ban Nhân dân, theo đó tất cả người đứng
đầu của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban Nhân dân đều là Ủy viên của Ủy
ban Nhân dân. Đây là quy định nhằm phát huy trí tuệ tập thể của các
thành viên Ủy ban Nhân dân, tăng cường hiệu lực giám sát của Hội đồng
Nhân dân đối với Ủy ban Nhân dân cùng cấp thông qua cơ chế lấy phiếu tín
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng Nhân
dân bầu.
Đối với quy định về việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
giới đơn vị hành chính, Luật quy định khi có trên 50% tổng số cử tri
trên địa bàn đồng ý với đề án thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính, cơ quan xây dựng đề án mới được hoàn
thiện đề án, trình Hội đồng Nhân dân các cấp thông qua chủ trương.
Làm rõ mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan, tổ chức và Nhân dân
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm 8 chương, 41 điều, tăng thêm 4
chương, 23 điều. Luật đã sửa đổi, bổ sung hầu hết các điều, chỉ giữ lại
một điều (Điều 8, nay là Điều 19 mới).
Luật làm rõ các mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ
quan, tổ chức và Nhân dân. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
Đảng là quy định hoàn toàn mới, thể chế hóa nội dung Cương lĩnh của Đảng
về mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Theo đó, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức thành viên, vừa lãnh đạo
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
Nhà nước được cơ bản giữ như Luật cũ, đồng thời bổ sung một số quy định
cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và thực tiễn mối quan hệ giữa Mặt
trận với Nhà nước đã thực hiện ổn định trong thời gian qua.
Luật quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; mở rộng và đa dạng hóa các hình
thức tập hợp đoàn kết Nhân dân; động viên, hỗ trợ Nhân dân thực hiện dân
chủ, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đặc biệt, Luật quy định Nhân dân giám sát hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải thường xuyên đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động để thực hiện trách nhiệm của mình với Nhân dân.
Để mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phù hợp với
thực tiễn hoạt động hiện nay của Mặt trận, Luật không chỉ quy định mối
quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành
viên, mà còn đối với các tổ chức không phải là thành viên của Mặt trận.
Góp phần định hướng tiêu dùng xã hội lành mạnh và công bằng hơn
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa
đổi, bổ sung quy định “xăng các loại” thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ
đặc biệt. Theo quy định trên, từ ngày 1/1/2016, nap-ta (bao gồm cả
con-đen-sát), chế phẩm tái hợp và các chế phẩm khác để pha chế xăng
không thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Luật bổ sung quy định giá tính thuế đối với hàng hóa vừa chịu thuế bảo
vệ môi trường, vừa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá chưa có thuế bảo
vệ môi trường và thuế giá trị gia tăng để bảo đảm tính đồng bộ của hệ
thống pháp luật thuế.
Về thuế suất đối với mặt hàng thuốc lá, Luật quy định lộ trình tăng thuế
tiêu thụ đặc biệt từ ngày 1/1/2016 tăng từ 65% lên 70%; từ ngày
1/1/2019 tăng từ 70% lên 75%.
Đối với rượu từ 20 độ trở lên: Áp dụng thuế suất 55% từ ngày 1/1/2016,
60% từ ngày 1/1/2017 và 65% từ ngày 1/1/2018. Đối với rượu dưới 20 độ:
Áp dụng thuế suất 30% từ ngày 1/1/2016 và 35% từ ngày 1/1/2018.
Đối với bia, từ ngày 1/1/2016 tăng từ 50% lên 55%; từ ngày 1/1/2017 là 60%; từ ngày 1/1/2018 là 65%.
Để khuyến khích hơn nữa việc sử dụng nhiên liệu sinh học, sử dụng nhiên
liệu cồn từ sản xuất trong nước, góp phần bảo vệ môi trường, Luật quy
định mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt ưu đãi đối với xăng sinh học
là 8% đối với xăng E5 và 7% đối với xăng E10.
Luật quy định không thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với cá nhân trúng
thưởng ca-si-nô, trò chơi điện tử có thưởng do thực tế không xác định
được thu nhập trúng thưởng. Nhằm bảo đảm đồng bộ với nội dung sửa đổi
này, Luật quy định tăng thuế suất tiêu thụ đặc biệt đối với kinh doanh
ca-si-nô (bao gồm cả trò chơi điện tử có thưởng) từ 30% lên 35%.
Mở rộng thêm các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 có 9 chương, 125 điều, không áp dụng đối
với bảo hiểm thất nghiệp (do đã được quy định trong Luật việc làm). Luật
mở rộng thêm các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc: Người lao
động có hợp đồng lao động 1-3 tháng, người lao động là công dân nước
ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động được cơ quan thẩm
quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy
định của Chính phủ và người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường,
thị trấn...
Luật sửa đổi quy định thời gian hưởng chế độ thai sản đối với lao động
nữ nghỉ việc hưởng chế độ khi sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng
tuổi phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động năm 2012. Bổ sung quy
định lao động nam có vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản;
bổ sung thêm chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ
nhờ mang thai hộ; bổ sung thêm quy định trợ cấp một lần khi sinh con đối
với trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội...
Luật quy định người lao động được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội
để đủ điều kiện hưởng lương hưu nhằm đảm bảo cuộc sống khi hết tuổi lao
động. Trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sau
một năm nghỉ việc, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sau một năm
không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã
hội khi có yêu cầu thì được nhận bảo hiểm xã hội một lần.
Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với người tham gia bảo hiểm xã hội
bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính theo số năm đã
đóng bảo hiểm xã hội: 1,5 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo
hiểm xã hội cho những năm đóng trước năm 2014; 2 tháng mức bình quân
tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cho những năm đóng từ năm 2014 trở
đi (theo quy định của Nghị quyết số 93/2015/QH13 về việc thực hiện
chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động).
Nâng cao tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015 gồm 9 chương, 73 điều. Dự thảo tăng 1
chương, giảm 3 điều, trong đó bổ sung 11 điều mới và bỏ 14 điều của Luật
cũ.
Cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo Hiến pháp, Luật quy định
đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là: Việc quản lý, sử dụng tài
chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản
lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Do
phạm vi kiểm toán mở rộng theo quy định của Hiến pháp, Luật bổ sung thêm
đơn vị được kiểm toán là cơ quan quản lý sử dụng nợ công.
Luật quy định giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán là văn bản do Kiểm
toán Nhà nước lập và công bố để đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến
nghị về những nội dung đã kiểm toán. Việc quy định giá trị pháp lý của
báo cáo kiểm toán có ý nghĩa quan trọng đối với đơn vị được kiểm toán
cũng như các cơ quan, tổ chức sử dụng trong hoạt động của mình. Báo cáo
kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi phát hành và công khai có giá
trị bắt buộc phải thực hiện đối với đơn vị được kiểm toán về sai phạm
trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công.
Luật cũng quy định thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày.
Trường hợp phức tạp, cần thiết, Tổng Kiểm toán Nhà nước quyết định gia
hạn một lần không quá 30 ngày. Đối với cuộc kiểm toán hoạt động để đánh
giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng tài
chính công, tài sản công có quy mô toàn quốc, Tổng Kiểm toán Nhà nước
quyết định cụ thể thời hạn kiểm toán cho phù hợp.
Tạo cơ sở pháp lý để công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với Tổ quốc
Luật nghĩa vụ quân sự có 9 chương, 62 điều. Về độ tuổi gọi nhập ngũ,
Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015 ngoài việc quy định: “Công dân nam đủ 18
tuổi được gọi nhập ngũ; độ tuổi gọi nhập ngũ trong thời bình từ đủ 18
tuổi đến hết 25 tuổi”, bổ sung quy định “công dân được đào tạo trình độ
cao đẳng, đại học đã được tạm hoãn gọi nhập ngũ thì độ tuổi gọi nhập ngũ
đến hết 27 tuổi."
Luật quy định chỉ tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình đối với đối
tượng là học sinh phổ thông, sinh viên đang được đào tạo trình độ đại
học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ
chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào
tạo của một trình độ đào tạo; quy định rõ hơn đối với trường hợp
công dân thuộc diện tạm hoãn gọi nhập ngũ, nếu không còn lý do tạm hoãn
thì được gọi nhập ngũ.
Đối với học sinh đang học phổ thông, sinh viên đang được đào tạo trình
độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng
hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp sẽ được
gọi nhập ngũ.
Đối với công dân đang học tập tại các nhà trường hoặc trúng tuyển vào
các trường thuộc cơ sở giáo dục không thuộc đối tượng tạm hoãn gọi nhập
ngũ thì được gọi nhập ngũ và bảo lưu kết quả, sau khi hoàn thành nghĩa
vụ quân sự tại ngũ sẽ được tiếp nhận để học tập.
Để bảo đảm chính sách đối với người nhiễm chất độc da cam, Luật bổ sung
quy định tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình đối với một con
của người nhiễm chất độc da cam bị suy giảm khả năng lao động từ 61%
đến 80%.../.
(TTXVN)