VAI TRÒ TRUNG TÂM CỦA ASEAN
Vai
trò trung tâm của ASEAN đã được xác định từ những năm 90 của thế kỷ XX
với các thuật ngữ khác nhau, như “động lực chính” (primary driving
force), “trụ cột trung tâm” (central pillar), “vai trò trung tâm”
(centrality). Vai trò này được thể hiện trong khuôn khổ ASEAN và các cơ
chế do ASEAN dẫn dắt như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao
Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn
đàn biển ASEAN mở rộng (EAMF). ASEAN cam kết với các đối tác bên ngoài
thông qua các cơ chế do ASEAN dẫn dắt nhằm xây dựng lòng tin lẫn nhau
cũng như củng cố cấu trúc khu vực mở, minh bạch, bao trùm và dựa trên
luật lệ, lấy ASEAN làm trung tâm.
Từ góc độ chính trị - an ninh,
trong khuôn khổ của ASEAN, thuật ngữ “động lực chính” của ASEAN lần đầu
tiên xuất hiện trong Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố Hòa hợp Bali
II) vào năm 2003. Theo đó, ASEAN được coi là động lực chính của ARF,
diễn đàn chủ đạo về an ninh khu vực. Thuật ngữ “vai trò trung tâm” xuất
hiện lần đầu tiên trong Tuyên bố Chủ tịch ASEAN lần thứ 12 vào đầu năm
2007. Khi xây dựng kế hoạch chi tiết cho từng trụ cột cộng đồng vào năm
2009, Tuyên bố Cha-am Hua Hin về lộ trình cho Cộng đồng ASEAN chỉ rõ
nhận thức chung của ASEAN về việc duy trì vai trò trung tâm và động lực
chính của ASEAN trong việc xây dựng cấu trúc khu vực đang định hình.
Trước đó, Hiến chương ASEAN (được phê chuẩn vào cuối năm 2008) nhấn mạnh
sự cần thiết cần “duy trì vai trò trung tâm và chủ động của ASEAN với
tư cách là động lực chính trong quan hệ và hợp tác với các đối tác bên
ngoài trong một cấu trúc khu vực mở, minh bạch và bao hàm”(1).
Trong khuôn khổ của ARF, Hội nghị lần thứ hai của diễn đàn này khẳng định: “ASEAN đảm nhận trách nhiệm là động lực chính”(2).
Vai trò động lực chính và trụ cột trung tâm của ASEAN trong ARF được
khẳng định trong Tuyên bố Tầm nhìn ARF đến năm 2020 (đưa ra năm 2009 tại
Phu-kệt, Thái Lan) và Kế hoạch hành động Hà Nội (đưa ra năm 2010) thực
hiện Tuyên bố Tầm nhìn ARF đến năm 2020.
Hội
nghị cấp cao Đông Á (EAS) chính thức ra đời cuối năm 2005 nhưng phải
tới Hội nghị lần thứ 5 được tổ chức tại Hà Nội (năm 2010), vai trò trung
tâm của ASEAN trong EAS mới chính thức được khẳng định trong tuyên bố
chủ tịch của diễn đàn này. Trong khi đó, trong Tuyên bố Chủ tịch đầu
tiên của ADMM+ diễn ra vào tháng 10-2010 tại Hà Nội, các nước thành viên
của cơ chế này đã tái khẳng định tầm quan trọng của vai trò trung tâm
của ASEAN trong tiến trình ADMM+(3). Ra đời năm 2012 với mục
tiêu khuyến khích đối thoại giữa các nước tham gia EAS nhằm tận dụng cơ
hội và giải quyết các thách thức chung về các vấn đề biển ở khu vực,
EAMF nhấn mạnh tầm quan trọng của vai trò trung tâm và hội nhập của
ASEAN trong việc giải quyết các vấn đề biển ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Ra đời cuối năm 2017, nhóm Bộ Tứ (Mỹ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Ấn
Độ) nhanh chóng “ủng hộ mạnh mẽ vai trò trung tâm của ASEAN ở Ấn Độ
Dương - Thái Bình Dương và tái khẳng định rằng các cơ chế do ASEAN dẫn
dắt như EAS, ARF đóng vai trò không thể thiếu ở khu vực”.
Từ góc độ kinh tế,
một mục tiêu được ASEAN nỗ lực thực hiện nhằm khẳng định vai trò trung
tâm của mình là thông qua các cuộc đàm phán xây dựng các hiệp định
thương mại tự do (FTA) và các hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (CEP).
Vai trò trung tâm của ASEAN trong hội nhập kinh tế khu vực cũng đã được
các nước là đối tác của ASEAN trong EAS ủng hộ. Tuyên bố Chủ tịch EAS
lần thứ 2 năm 2007 “nhắc lại sự ủng hộ của mình đối với vai trò động lực
của ASEAN trong hội nhập kinh tế ở khu vực”.
Vai
trò trung tâm của ASEAN cũng là chủ đề được thảo luận rộng rãi trong
giới học thuật quốc tế. Điểm chung mà các chuyên gia chia sẻ cho rằng
ASEAN là sản phẩm của sự thích ứng trước cạnh tranh ảnh hưởng của nước
lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Học giả Amitav Acharya lý giải, vai trò trung tâm của ASEAN là sản phẩm của
các nhân tố bên ngoài và của chính các thành viên nhưng ASEAN phải quan
tâm nhiều hơn tới các mối quan hệ của các cường quốc(4).
Caballero Anthony từ cách tiếp cận mạng lưới xã
hội lập luận rằng, mặc dù thiếu sức mạnh vật chất, ASEAN vẫn có thể
khẳng định vai trò trung tâm nhờ vai trò kết nối(5), cho phép tổ chức này thực thi tầm ảnh hưởng trong các tiến trình khu vực với sự chấp nhận của các cường quốc(6).
Nhìn từ lợi ích của ASEAN, Lukas
Maximillian Mueller coi vai trò trung tâm của ASEAN là phương thức để
tổ chức này tránh việc bị đẩy ra ngoài lề hơn là đóng vai trò lãnh đạo ở
Đông Á(7).
ASEAN TRONG CHÍNH SÁCH CỦA MỘT SỐ CƯỜNG QUỐC
Có
thể thấy, với vai trò như trên, ASEAN trở thành nhân tố quan trọng
trong chính sách của một số nước lớn, như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn
Độ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Ngay từ thập niên 90 của thế kỷ XX, Trung Quốc
đã rất coi trọng việc phát triển quan hệ với ASEAN nhờ vào vai trò tích
cực của tổ chức này trong các vấn đề khu vực và quốc tế. Các nước đang
phát triển ở khu vực lân cận của Trung Quốc chiếm vị trí đặc biệt trong
chính sách đối ngoại của nước này kể từ đầu thế kỷ XXI(8).
Dưới thời kỳ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình, Đông
Nam Á nói chung và ASEAN nói riêng đóng vai trò quan trọng hàng đầu
trong thực hiện ý niệm ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Trong bài
phát biểu vào tháng 10/2013, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập
Cận Bình nhấn mạnh: “Dù từ góc độ địa lý, môi trường tự nhiên hay quan
hệ lẫn nhau thì các nước, khu vực xung quanh Trung Quốc có ý nghĩa chiến
lược vô cùng quan trọng(9).
Trong
bối cảnh Trung Quốc thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” và cuộc cạnh tranh
với Mỹ ngày càng gay gắt, toàn diện và ở một cấp độ thấp hơn là cạnh
tranh với Ấn Độ và Nhật Bản, Trung Quốc cần hơn một khu vực Đông Nam Á
với sự ủng hộ của các nước trong khu vực cũng như ASEAN đối với các
chiến lược và sáng kiến mang tầm khu vực và thế giới, đóng vai trò “kiểu
mẫu” trong quan hệ hợp tác với bên ngoài của Trung Quốc.
Đối với Mỹ,
ASEAN là tổ chức đa phương quan trọng trong chiến lược “xoay trục, tái
cân bằng” sang châu Á. Trong bài phát biểu tại Hội nghị cấp cao ASEAN -
Mỹ tại Brunei năm 2013, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry khẳng định “quan hệ
đối tác Mỹ - ASEAN là ưu tiên hàng đầu của chính quyền Obama” và “là
một phần quan trọng trong chiến lược tái cân bằng của Tổng thống Mỹ
Barack Obama đối với châu Á”(10). Năm 2015, quan hệ đối tác
Mỹ - ASEAN được nâng lên tầm quan hệ đối tác chiến lược. Trong bối cảnh
luật pháp quốc tế bị thách thức, đặc biệt tranh chấp ở Biển Đông, Chiến
lược An ninh quốc gia của Mỹ năm 2015 khẳng định cam kết của nước này
trong việc củng cố các thể chế khu vực, như EAS và Diễn đàn Hợp tác kinh
tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) để củng cố các quy tắc và chuẩn mực
chung, thực hiện các phản ứng tập thể trước những thách thức chung và
giúp bảo đảm giải quyết hòa bình các tranh chấp(11).
Dưới
thời kỳ Tổng thống Mỹ Donald Trump, Mỹ tiếp tục coi trọng vai trò của
ASEAN. Phát biểu tại Hội nghị cấp cao ASEAN - Mỹ lần thứ 5 (năm 2017),
Tổng thống Mỹ Donald Trump khẳng định cam kết của Mỹ về vai trò trung tâm của
ASEAN với tư cách là diễn đàn khu vực về hợp tác toàn diện(12).
Chiến lược An ninh quốc gia của Mỹ năm 2017 coi ASEAN và APEC là trung
tâm của cấu trúc và các nền tảng khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương(13).
Tháng 11/2019, Tầm nhìn Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Bộ Quốc phòng
Mỹ có tới 39 lần đề cập đến ASEAN. Tầm nhìn khẳng định ASEAN là trung
tâm địa lý của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và là trung tâm của tầm
nhìn Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ. Một mặt, Mỹ ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong các cơ chế, như Hội nghị cấp cao ASEAN - Mỹ, EAS, ADMM+, ARF, EAMF; mặt khác, hỗ trợ nỗ lực của các nước ASEAN trong việc bảo đảm quyền lợi bình đẳng của các nước ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương(14).
Tiếp
nối chính sách khu vực nói chung của chính quyền tiền nhiệm, chính
quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden đã có những nỗ lực nhằm thúc đẩy sự can
dự của Mỹ và khu vực khi Hướng dẫn chiến lược an ninh quốc gia tạm thời
được đưa ra ngày 3/3/2021 khẳng định ba khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương, châu Âu và Tây Bán cầu gắn chặt với lợi ích quốc gia của Mỹ. Ở Ấn
Độ Dương - Thái Bình Dương, Mỹ làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác với Ấn
Độ và hợp tác với New Zealand, Singapore, Việt Nam và các quốc gia ASEAN
khác để thúc đẩy các mục tiêu chung(15). Từ tháng 5 đến tháng
8/2021, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Wendy Sherman, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ L. Austin, Phó Tổng thống Mỹ K. Harris đã có các chuyến thăm tới Đông Nam
Á. Tổng thống Mỹ J. Biden cũng đã tham dự và có bài phát biểu tại Hội
nghị cấp cao ASEAN - Mỹ năm 2021. Phía Mỹ tiếp tục khẳng định sự cần
thiết của ASEAN đối với cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương(16), là cơ chế đa phương trung tâm của cấu trúc khu vực(17). Do vậy, Mỹ cam kết ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN(18).
Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng
lãnh đạo các nước ASEAN tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ - ASEAN tại
Nhà Trắng, ngày 12/5/2022. (Ảnh: AFP/TTXVN)
ASEAN cũng đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản.
Ngay từ năm 1991, Thủ tướng Nhật Bản Toshiki Kaifu nói rõ, Nhật Bản
từ lâu đã coi ASEAN là trọng tâm trong chính sách đối ngoại và là một
trong những trọng tâm ưu tiên của chính sách viện trợ phát triển chính
thức (ODA) của nước này(19). Trong bài phát biểu tại
Singapore vào năm 2013, Thủ tướng Nhật Bản Shinzō Abe nhấn mạnh, nếu
kinh tế khu vực như là một chiếc máy bay thì Nhật Bản và ASEAN là hai
cái cánh của chiếc máy bay đó. Trong chiến lược hỗ trợ phát triển kết
cấu hạ tầng cho châu Á, ASEAN nằm ở trung tâm của chiến lược này. Thủ
tướng Nhật Bản S. Abe cũng nhấn mạnh thêm rằng, quan hệ ASEAN - Nhật
Bản đã vượt ra ngoài quan hệ kinh tế để xây dựng một mối quan hệ chịu
trách nhiệm bảo đảm an ninh của khu vực, đặc biệt là tự do hàng hải trên
các vùng biển(20).
Khi
Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở được công bố
vào năm 2016, Nhật Bản tiếp tục khẳng định coi trọng vai trò trung tâm
và thống nhất của ASEAN, coi ASEAN và các nước Nam Á là trọng tâm của
các nỗ lực nâng cao nhận thức về sự tin tưởng, trách nhiệm, vai trò lãnh
đạo, dân chủ, pháp quyền và kinh tế thị trường. ASEAN cũng là nhân tố
ưu tiên trong các chính sách thúc đẩy nâng cao chất lượng phát triển kết
cấu hạ tầng, thương mại và đầu tư, môi trường kinh doanh và phát triển
nguồn nhân lực, tăng cường kết nối(21). Sách trắng Quốc phòng
Nhật Bản năm 2021 nhấn mạnh, với việc nằm ở các khu vực chiến lược quan
trọng, tại các trọng điểm chiến lược trên các tuyến đường biển của Nhật
Bản và là trung tâm hợp tác khu vực, ASEAN đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm hòa bình và thịnh vượng của Nhật Bản cũng như toàn
khu vực(22). Cũng cần nói thêm rằng, Nhật Bản là quốc gia đầu
tiên có tuyên bố chung với ASEAN về hợp tác Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ
Dương - Thái Bình Dương (tháng 11/2020).
Còn đối với Ấn Độ,
đầu những năm 90 của thế kỷ XX, song song với quyết định cải cách kinh
tế theo hướng tự do hóa, mở cửa, hội nhập với kinh tế thế giới, nước này
triển khai “Chính sách hướng Đông” nhằm góp phần đưa Ấn Độ trở thành
cường quốc kinh tế và quân sự không chỉ ở khu vực châu Á mà còn trên
phạm vi toàn thế giới. Trong chính sách này, ASEAN đóng vai trò quan
trọng.
Trong
bài phát biểu tại Trường Đại học Harvard (Mỹ) vào tháng 9/2003, Bộ
trưởng Ngoại giao Ấn Độ Y. Sin-ha nói rõ: “Giai đoạn đầu tiên của chính
sách hướng Đông tập trung vào ASEAN và hướng chủ yếu vào các mối liên
kết thương mại và đầu tư. Giai đoạn mới của chính sách này được đặc
trưng bởi khái niệm mở rộng về hướng Đông, từ Australia tới Đông Á
với ASEAN là trọng tâm của chính sách”(23). Khi “Chính sách
hướng Đông” được nâng lên thành chính sách “Hành động hướng Đông” và Ấn
Độ công bố Sáng kiến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, chính sách “Hành
động hướng Đông” được xác định là nền tảng của sự can dự của Ấn Độ vào
khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và ASEAN là trung tâm của chính
sách này(24). Ấn Độ khẳng định, ASEAN đang thực sự dẫn dắt
tiến trình hội nhập thuộc phạm vi chính sách “Hành động hướng Đông” của
Ấn Độ và chính ASEAN đã đặt nền tảng (cho hợp tác) của khu vực Ấn Độ
Dương - Thái Bình Dương. Do vậy, sự thống nhất và trung tâm của ASEAN
luôn là ưu tiên quan trọng đối với Ấn Độ.
Cho
đến giữa thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, Ấn Độ và ASEAN đã có 30 cơ
chế đối thoại, trong đó có hội nghị cấp cao, hội nghị cấp bộ trưởng
(ngoại giao, thương mại, du lịch, nông nghiệp, môi trường, năng lượng
tái tạo và viễn thông) cùng nhiều cơ chế khác. Ấn Độ là quốc gia thứ hai
sau Nhật Bản ra tuyên bố chung với ASEAN về hợp tác trong khuôn khổ Tầm
nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (tháng 10/2021).
Như
vậy, vai trò trung tâm của ASEAN trong các cơ chế hợp tác ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương như ARF, EAS, ADMM+, EAMF rõ ràng đóng vai trò
quan trọng trong chính sách của các nước lớn đối với khu vực này. Do
vậy, đối với Việt Nam, vai trò trung tâm của ASEAN có ý nghĩa quan trọng
chiến lược, thể hiện ở các điểm sau:
Trước hết,
dù có những tính toán khác nhau nhưng rõ ràng ASEAN là nhân tố quan
trọng trong chính sách của Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ đối với khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong bối cảnh cạnh tranh ảnh hưởng nước
lớn, đặc biệt là cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc và ở cấp độ thấp hơn
là cạnh tranh giữa Trung Quốc và Nhật Bản, giữa Trung Quốc và Ấn Độ diễn
ra mạnh mẽ, với vai trò trung lập của mình, ASEAN được các nước lớn lựa
chọn là cơ chế đa phương “dẫn dắt cuộc chơi” ở khu vực.
Thứ hai,
với hệ thống các cơ chế do ASEAN dẫn dắt như ARF, EAS, ADMM+ và EAMF,
ASEAN đã chủ trì thảo luận nhiều vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế...
mà các cường quốc có lợi ích, cũng là những vấn đề tác động trực tiếp
đến an ninh và phát triển của Việt Nam như vấn đề Biển Đông, hội nhập
kinh tế ở khu vực.
Thứ ba,
ngoài vai trò “điều phối” hay “dẫn dắt cuộc chơi”, ASEAN với tập hợp
của chủ yếu các quốc gia vừa và nhỏ, có quy mô kinh tế vừa phải, phụ
thuộc chủ yếu vào bên ngoài về an ninh và phát triển nên thường xuyên
trở thành đối tượng bị các nước lớn lôi kéo, chia rẽ. Cam kết lỏng lẻo,
đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị - an ninh của ASEAN thường bị chỉ
trích. Tuy nhiên, sự lỏng lẻo chủ yếu đến từ nguyên tắc đồng thuận của
ASEAN lại giúp tổ chức này đứng vững và không ngừng phát huy vai trò
trung tâm ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong nhiều thập niên qua.
Nguyên tắc này cũng giúp bảo đảm lợi ích của các nước nhỏ trong các vấn
đề liên quan đến chính trị và an ninh nội bộ và chủ quyền lãnh thổ.
Thứ tư,
ASEAN là tổ chức hợp tác khu vực đa phương đầu tiên mà Việt Nam tham
gia, góp phần giúp Việt Nam phá thế bị bao vây, cô lập, từng bước hội
nhập toàn diện với khu vực và thế giới. Cho đến nay, ASEAN cũng là cơ
chế khu vực mà vấn đề Biển Đông được quốc tế hóa chính thức, thường
xuyên, hiệu quả nhất thông qua các tuyên bố chủ tịch của các hội nghị
cấp cao ASEAN, các tuyên bố riêng rẽ của ASEAN về Biển Đông trong các
năm 1992, 1995, 2014; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)
năm 2002, văn kiện của ARF, EAS, ADMM+...
Rõ
ràng, ASEAN là tổ chức hợp tác khu vực có ý nghĩa quan trọng đối với an
ninh và phát triển của Việt Nam hiện nay và trong những năm tới. Điều
này cũng đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định trong Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng, đó là: một mặt, khẳng định vai trò quan trọng của ASEAN trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực; mặt khác,
chủ trương giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh
khu vực, chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam trong ASEAN.
Việc xây dựng chiến lược, chính sách đối ngoại cụ thể đối với ASEAN để
hiện thực hóa định hướng mà Đảng đã chỉ ra là thực sự cần thiết trong
bối cảnh hiện nay.
Tóm
lại, ASEAN là cơ chế hợp tác khu vực hiệu quả hàng đầu hiện nay ở châu Á
- Thái Bình Dương. Vai trò trung tâm của tổ chức này đã được minh chứng
qua quá trình phát triển của ASEAN và các cơ chế do ASEAN dẫn dắt với
sự tham gia của hầu hết các cường quốc trên thế giới có lợi ích ở khu
vực. Với vai trò quan trọng đó, ASEAN trở thành một trong những ưu tiên
trong chính sách của các cường quốc đối với khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Thực tế vận động của ASEAN trong những thập niên qua cho thấy,
ASEAN và các cơ chế do ASEAN dẫn dắt có ý nghĩa quan trọng đối với quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam khi đất nước bước vào giai đoạn mở
cửa và hội nhập. Những cơ chế này cũng là những “mặt trận” quan trọng
đối với Việt Nam trong công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ./.
TS. Võ Xuân Vinh
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
_________________
(1) Ban Thư ký ASEAN: ASEAN Charter (Hiến chương ASEAN), Jakarta, tr.5.
(2) ASEAN Regional Forum: The Second ASEAN Regional Forum (Diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ hai), https://aseanregionalforum.asean.org/wp-content/uploads/2019/01/Second-ARF-Bandar-Seri-Begawan-1-August-1995.pdf .
(3) Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng lần thứ nhất, ngày 12/10/2010.
(4) Amitav Acharya: The Myth of ASEAN Centrality (Tạm dịch: “Câu chuyện về vai trò trung tâm của ASEAN”), Contemporary Southeast Asia: A journal of international and strategic affairs, t.39, số 2, 2017, tr.273 - 274.
(5) Xem thêm: Lê Lêna: Vai trò của ASEAN trong hợp tác an ninh - chính trị Đông Á từ góc nhìn lý thuyết phân tích mạng lưới xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018.
(6)
Mely Caballero Anthony: Understanding ASEAN’s centrality: bases and
prospects in an evolving regional architecture (Tạm dịch: “Tìm hiểu vai
trò trung tâm của ASEAN: Nền tảng và triển vọng trong một cấu trúc khu
vực đang phát triển”), The Pacific Review, t.27, số 4, 2014, tr.563.
(7)
Lukas Maximillian Mueller: ASEAN centrality under threat - the cases
of RCEP and connectivity (Tạm dịch “Vai trò trung tâm của ASEAN đang bị
thách thức - Trường hợp của RCEP và sự kết nối”), Journal of Contemporary East Asia Studies, t.8, số 2, 2019, tr.180.
(8)
Li Chenyang and Yang Xiangzhang: China’s Cooperation with Neighboring
Developing Countries: Achievements and Challenges Ahead (Tạm dịch: “Sự
hợp tác của Trung Quốc với các nước đang phát triển lân cận: Thành tựu
và thách thức”), China Quarterly of International Strategic Studies, t.5, số 1, 2019, tr.33.
(9) 中国共产党,
习近平在周边外交工作座谈会上发表重要讲话强调: 为我国发展争取良好周边环境 (Tạm dịch: Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình có bài phát
biểu quan trọng tại Diễn đàn về công tác ngoại giao láng giềng: “Phấn
đấu tạo dựng môi trường ngoại giao láng giềng thân thiện vì sự phát
triển của Trung Quốc”), http://politics.people.com.cn/n/2013/1025/c1024-23332318.html?.
(10)
U.S. Mission to ASEAN: Opening Remarks at U.S. - ASEAN Summit (Tạm
dịch: “Phát biểu khai mạc tại Hội nghị cấp cao Hoa Kỳ - ASEAN”), https://asean.usmission.gov/opening-remarks-at-u-s-asean-summit/.
(11) The White House: National Security Strategy (Chiến lược An ninh quốc gia), https://obamawhitehouse.archives.gov/sites/default/files/docs/2015_national_security_strategy_2.pdf, tháng 2/2015, tr.24.
(12)
U.S. Mission to ASEAN: Remarks by President Trump at 5th U.S. - ASEAN
Summit (Tạm dịch: “Phát biểu của Tổng thống Mỹ Trăm tại Hội nghị thượng
đỉnh Hoa Kỳ - ASEAN lần thứ 5”), https://asean.usmission.gov/remarks-president-trump-5th-u-s-asean-summit/.
(13)
The White House: National Security Strategy of the United States of
America (Chiến lược An ninh quốc gia của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ), tháng
12/2017, tr.46.
(14)
Department of States of the United States of America: A Free and Open
Indo - Pacific: Advancing a Shared Vision (Tạm dịch: “Ấn Độ Dương -
Thái Bình Dương tự do và rộng mở: Nâng cao tầm nhìn chung”), https://www.state.gov/a-free-and-open-indo-pacific-advancing-a-shared-vision/.
(15) The White House: Interrim National Security Strategic Guidance (Hướng dẫn Chiến lược an ninh quốc gia tạm thời), https://www.whitehouse.gov/wp-content/uploads/2021/03/NSC-1v2.pdf, tháng 3/2021, tr.10.
(16)
The White House: Remarks by President Biden at the Annual U.S. -
ASEAN Summit (Tạm dịch: “Phát biểu của Tổng thống Mỹ Bai-đơn tại Hội
nghị thượng đỉnh thường niên Hoa Kỳ - ASEAN”), https://www.whitehouse.gov/briefing-room/speeches-remarks/2021/10/26/remarks-by-president-biden-at-the-annual-u-s-asean-summit/.
(17),
(18) The White House: Remarks by Vice President Harris on the Indo -
Pacific Region (Tạm dịch: “Phát biểu của Phó Tổng thống Mỹ Ha-rít về
khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”), https://www.whitehouse.gov/briefing-room/speeches-remarks/2021/08/24/remarks-by-vice-president-harris-on-the-indo-pacific-region/.
(19)
Toshiki Kaifu: Japan and ASEAN: Seeking a Mature Partnership for the
New Age (Tạm dịch: “Nhật Bản và ASEAN: Tìm kiếm quan hệ đối tác cho kỷ
nguyên mới”), https://www.jstor.org/stable/25770347.
(20)
Association of Southeast Asian Nations: Japan and ASEAN, Always in
Tandem: Towards a more advantageous win - win relationship (Tạm dịch:
“Nhật Bản và ASEAN luôn song hành: Hướng tới mối quan hệ đôi bên cùng có
lợi”), https://asean.org/book/japan-and-asean-always-in-tandem-towards-a-more-advantageous-win-win-relationship-through-my-three-arrows/.
(21)
Ministry of Foreign Affairs of Japan: Free and Open Indo - Pacific
(Tạm dịch: “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở”), https://www.mofa.go.jp/files/000430632.pdf.
(22) Ministry of Defense: Defense of Japan 2021 (Quốc phòng Nhật Bản 2021), https://www.mod.go.jp/en/publ/w_paper/index.html, tr.358.
(23)
Ministry of External Affaires: Speech by External Affairs Minister
Shri Yashwant Sinha at Harvard University (Tạm dịch: “Bài phát biểu của
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ấn Độ Shri Yashwant Sinha tại Đại học Harvard
(Mỹ)”), https://www.mea.gov.i.
(24)
Narendra Modi: ASEAN is and always will be the heart of our Act East
Policy (Tạm dịch: “ASEAN luôn và sẽ là trung tâm của chính sách “Hành
động hướng Đông” của Ấn Độ”), https://www.narendramodi.in/text-of-pm-s-opening-statement-at-16th-asean-india-summit-in-bangkok-547190.
(Nguồn: tapchicongsan.org.vn)