Thứ Hai, 23/9/2024
Thời sự - Chính trị
Thứ Tư, 5/7/2017 19:2'(GMT+7)

Bác Hồ với Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: Những quyết định có tính bước ngoặt

Bà Nguyễn Thanh Hà, con gái Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, đại diện gia đình trao tặng Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh kỷ vật quý

Bà Nguyễn Thanh Hà, con gái Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, đại diện gia đình trao tặng Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh kỷ vật quý

                                                                          
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Người còn là vị lãnh tụ, người thầy của lớp lớp cán bộ cách mạng ưu tú của Đảng, của cách mạng Việt Nam và một trong số cán bộ sau này trở thành nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước, quân đội ta chính là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.

1. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tên thật là Nguyễn Vịnh sinh ngày 1/1/1914 tại làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Sinh ra và lớn lên trên quê hương Thừa Thiên Huế, vùng đất kiên cường, giàu truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước và cách mạng; được nuôi dưỡng, giáo dục và tiếp thu truyền thống lịch sử hào hùng của quê hương, đất nước, chứng kiến nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách áp bức thống trị của chế độ thực dân, phong kiến, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã sớm hình thành tư tưởng yêu nước và tinh thần cách mạng. 

Từ năm 1933-1934, Nguyễn Vịnh được các đồng chí Phan Đăng Lưu và Nguyễn Chí Diểu giác ngộ, dẫn dắt tham gia phong trào cách mạng. Tháng 7/1937, đồng chí Nguyễn Vịnh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó được cử làm Bí thư chi bộ thôn Niêm Phò - tổ chức Đảng đầu tiên ở huyện Quảng Điền. Đầu năm 1938, đồng chí Nguyễn Vịnh được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên… Tháng 7/1939, đồng chí bị địch bắt giam ở lao Thừa Phủ, sau đó bị đưa đi đày ở các nhà tù Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Trong nhà tù đế quốc, đồng chí Nguyễn Chí Thanh luôn thể hiện tinh thần bất khuất, kiên cường, giữ vững khí tiết của người cộng sản. 

Tháng 2/1942, đồng chí vượt ngục thành công, trở về tiếp tục hoạt động cách mạng và được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời của tỉnh Thừa Thiên- Huế. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí, hệ thống cơ sở cách mạng, các đoàn thể Việt Minh, lực lượng tự vệ được xây dựng và phát triển mạnh mẽ ở Thừa Thiên- Huế. Đây là sự chuẩn bị hết sức quan trọng cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, dù sau đó vào tháng 7/1943, đồng chí Nguyễn Chí Thanh lại bị địch bắt, bị giam giữ ở nhà tù Buôn Ma Thuột. Cho đến khi Nhật đảo chính Pháp, tháng 3/1945, đồng chí mới được thả tự do…

Tháng 8/1945, đồng chí được cử đi dự Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào. Tại Hội nghị, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương Đảng chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ và được Bác Hồ đặt tên là Nguyễn Chí Thanh. Từ đây, cái tên Nguyễn Chí Thanh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí…

Trong hơn 30 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất; đã hy sinh, phấn đấu trọn đời cho lý tưởng của Đảng; một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân,  tỏ rõ phẩm chất của một vị tướng tài thao lược của Quân đội nhân dân Việt Nam, một nhà lãnh đạo gương mẫu, giàu nghị lực và bản lĩnh; một tấm gương sáng ngời của người cộng sản; trung thực, thẳng thắn, chan hòa với đồng chí, đồng đội, đồng bào.

Cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh kể từ buổi ban đầu đến khi ở cương vị lãnh đạo cao nhất, anh lúc nào cũng xông xáo thâm nhập vào cuộc sống của đồng bào, chiến sĩ, lăn lộn với phong trào, tìm ra quy luật phát triển, tạo bước ngoặt mới cho cách mạng, tự tôi rèn mình trong đấu tranh cách mạng. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã trở thành nhà chính trị - quân sự lỗi lạc của Đảng, quân đội và dân tộc ta. Đó là tấm gương của một người đảng viên cộng sản kiên cường, nhất mực trung thành, tận tụy với Đảng, với nước, với nhân dân; một nhà lãnh đạo đức độ, tài năng, có uy tín của Đảng và cách mạng Việt Nam, nhà tham mưu chiến lược, vị chỉ huy xuất sắc của quân đội, người con ưu tú của tỉnh Thừa Thiên - Huế.

2. Trong thời gian từ tháng 8/1945 đến 6/7/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng nhiều lần ra các chỉ thị, quyết định phân công, điều chuyển công tác với Nguyễn Vịnh - Nguyễn Chí Thanh. Theo thống kê bước đầu, đã có tới trên 20 lần đồng chí Nguyễn Chí Thanh được giao các nhiệm vụ khác nhau, trên nhiều lĩnh vực đối nội, đối ngoại. Nhưng, có thể nói 3 quyết định sau đây là những quyết định có tính lịch sử, tạo ra bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Đại tướng: không chỉ thể hiện niềm tin yêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Đại tướng, mà còn khẳng định những đóng góp của Đại tướng đối với lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung, với quá trình xây dựng và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng.

Một là, quyết định cử vào Ban Chấp hành Trung ương tháng 8/1945, Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, phụ trách công tác Lào - Miên. Ngay lần đầu tiên gặp đại biểu Xứ ủy Trung Kỳ ra dự Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng và Hội nghị quốc dân họp tại Tân Trào, tối ngày 13/ 8/1945, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dành cho đồng chí Nguyễn Vịnh những thiện cảm đặc biệt. Trước khi nghe báo cáo tình hình chuẩn bị khởi nghĩa ở Thừa Thiên Huế, giữa lúc bộn bề công việc, Người bỗng quay sang hỏi Nguyễn Vịnh: “Huế bây chừ sen có đẹp hơn, hội thả diều có vui hơn không?” Khoảnh khắc ấy cho mãi đến sau này, Nguyễn Vịnh vẫn nhiều lần nhắc lại. Cũng tại Hội nghị đó, trong hai ngày liên tiếp, Nguyễn Vịnh được đề cử là Uỷ viên Trung ương, trực tiếp làm Bí thư Xứ uỷ Trung kỳ và phụ trách công tác Lào Miên. Tại Hội nghị quốc dân khi công bố danh sách các Ủy viên Ủy ban Dân tộc giải phóng do lãnh tụ Hồ Chí Minh đứng đầu, Nguyễn Vịnh được lãnh tụ đặt tên mới: Nguyễn Chí Thanh. Từ đó, trải qua bao thử thách, Nguyễn Vịnh - Nguyễn Chí Thanh luôn giữ vững khí tiết, phẩm chất của người cách mạng, xứng đáng với lòng thương yêu của Người. Là linh hồn của mặt trận Bình Trị Thiên khói lửa, trở thành vị tướng du kích như Bác đã  trìu mến gọi… Là Bí thư khu ủy Khu 4, Nguyễn Chí Thanh đã kiên cường sát cánh cùng đồng bào chiến sỹ ở các địa phương trong toàn khu làm nên chiến lũy ngăn chân quân Pháp xâm lấn vùng tự do ở vùng bắc miền Trung. Sau đó, đánh giá cao khả năng của người cán bộ xuất sắc, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương quyết định điều Nguyễn Chí Thanh ra Bắc nhận nhiệm vụ mới. 

Hai là, quyết định điều chuyển đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (7/1950) gắn với sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ II tổ chức tại Tuyên Quang tháng 2/1951, đồng chí được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng. Thực hiện kháng chiến và kiến quốc, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngày 31/8/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 36/SL phong quân hàm cấp tướng cho 16 sĩ quan cao cấp của quân đội; trong đó, đồng chí Nguyễn Chí Thanh được phong quân hàm Đại tướng. Trong buổi lễ trao quân hàm tổ chức tại Câu lạc bộ Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Dù ở cương vị nào chúng ta cũng đều phải cố gắng để xứng đáng là người đầy tớ trung thành và tận tụy của nhân dân”. 

Khi ấy, đại diện cho những cán bộ cao cấp tại buổi lễ đó, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh trân trọng nguyện hứa: Ra sức học tập, nâng cao trình độ, góp phần xây dựng quân đội nhân dân tiến lên chính quy, hiện đại, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình. Luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, rèn luyện tác phong khiêm tốn, giản dị, đoàn kết, thắt chặt đoàn kết giữa quân đội và nhân dân làm tròn trách nhiệm của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch trao cho (1).

Ba là, quyết định cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào chiến trường trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam với nhiệm vụ Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy các lực lượng vũ trang Quân Giải phóng miền Nam, tiến tới những quyết định chiến lược nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 9/1964. Trong hai ngày, 25 và 26/9/1964, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về cách mạng Việt Nam trong bối cảnh Mỹ vừa dựng lên cái gọi là “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, tăng cường đưa 20 vạn quân viễn chinh Mỹ với đầy đủ vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến nhất vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam. 

Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tập trung mọi khả năng, mọi lực lượng để giành một bước thắng lợi quyết định trong một vài năm sắp tới; đồng thời khẳng định: “Ta phải đánh lâu dài 10 năm đến 20 năm, phải đề phòng địch có hành động điên cuồng dù chúng bị cô lập, phải có kế hoạch phòng khi đột biến. Miền Nam phải mở rộng chiến tranh du kích, xây dựng chủ lực thành quả đấm mạnh, gọn, nhanh. Hai năm qua chưa tăng cường Ủy viên Bộ Chính trị cho miền Nam, nay tình hình cấp bách không đi không được”. Vì vậy, theo Chỉ thị của Người, Bộ Chính trị đã bàn bạc, cân nhắc kỹ và cùng nhất trí cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương và một số cán bộ cao cấp có kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu vào tăng cường cho chiến trường miền Nam... 

Vài tháng sau, đầu năm 1965, Hội nghị Trung ương Cục được triệu tập dưới sự chủ trì của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đưa ra những quyết sách đột phá để thực hiện nhiệm vụ chiến lược của cách mạng miền Nam trong tình hình mới. Những trận thắng liên tục và giòn giã: Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài từ chiến trường miền Nam làm tiền đề cho phong trào “Nắm lấy thắt lưng địch mà đánh”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”... đã làm nức lòng đồng bào và chiến sĩ cả nước. Cũng từ đó, hàng loạt bài viết của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh với các bút danh: Trường Sơn, Người quan sát, S.K.Z…từ chiến trường miền Nam gửi ra như: “Chuẩn bị đập tan âm mưu Mỹ”; “Ai thắng ai”; “Hoan hô chiến thắng Plâycu, Bình Giã, Phú Mỹ, Quảng Nam”; “Phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng quyết thắng giặc Mỹ”; “Đập tan âm mưu chiến lược của Giôn xơn ở miền Nam”... đã không chỉ phân tích sâu sắc tình hình và cục diện chiến trường miền Nam với cách nhìn “trong cuộc” của một nhà quân sự chiến lược tài ba Nguyễn Chí Thanh, mà còn khẳng định quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của nhân dân miền Nam. Thực tế chiến trường và những thắng lợi của quân và dân miền Nam trong các chiến dịch mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 sau đó đã tạo chuyển biến căn bản, đột phá, làm cho Mỹ - ngụy ngày càng lúng túng trên chiến trường và cách mạng miền Nam đứng trước những thời cơ mới. 

Tết Nguyên đán 1967, như thường lệ Bác Hồ tổ chức ăn Tết trước cho cán bộ cơ quan CQ 41. Khách mời gồm các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (đã trở ra miền Bắc công tác từ đầu năm 1967) cùng dự. Thông thường mỗi lần ăn Tết, mọi người đều được chụp ảnh với Bác; và thật không ngờ và cũng không ai nghĩ: đó là lần cuối Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vui Tết cùng cơ quan Bác Hồ!

Những tháng đầu hè năm 1967, sức khỏe của Bác không tốt. Đợt điều trị kéo dài tới hơn hai tháng, ngày 30/6/1967, Bác trở về sống tại ngôi nhà sàn và vẫn làm việc không ngừng. Cũng trong những ngày đó, việc chuẩn bị cho Đại tướng Nguyễn Chí Thanh trở lại chiến trường đã sẵn sàng. Liên tiếp trong những ngày đầu tháng 7/1967, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đến gặp Bác nhiều lần. Ngày 3/7/1967, buổi chiều, Đại tướng đến làm việc ở ngôi nhà sàn và sau đó ở lại, ăn cơm chia tay với Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ngày 5/7/1967, lúc 19 giờ 30, Đại tướng vào gặp Bác trên tầng 2 nhà sàn, trình bày với Bác kế hoạch sẽ lên đường vào lúc 3 giờ sáng ngày 6/7. Bịn rịn và lo lắng, Đại tướng trao đổi với đồng chí Vũ Kỳ, Thư ký của Bác về sức khỏe của Người. Nhưng thật bất ngờ, chỉ sau đó vài giờ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị nhồi máu cơ tim và đột ngột từ trần sáng ngày 6/7/1967. Hai mươi giờ cùng ngày, từ nhà sàn, Bác Hồ đến nơi đặt thi hài Đại tướng tại Câu lạc bộ Quân nhân. Ngày 7/7/1967, trong lễ tang, mọi người đều xúc động nghẹn ngào khi thấy nỗi buồn và hình ảnh Bác quay đi lau nước mắt vì sự ra đi của Đại tướng. 

3. 50 năm trước, trong những ngày đầu tháng 7, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đột ngột qua đời khi cả nước đang nỗ lực chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công và nổi dậy để giành thắng lợi quyết định ở miến Nam, nhằm “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự ra đi của Đại tướng là một tổn thất to lớn đối với cách mạng Việt Nam, bởi ông là người chỉ huy cao nhất ở miền Nam và cũng là người am hiểu thực tiễn chiến trường miền Nam đã được Bác Hồ tin tưởng, lựa chọn giao nhiệm vụ. Đại tướng đi xa, nhưng lòng yêu nước nồng nàn, nhiệt huyết cách mạng tràn đầy, ý chí mãnh liệt, tinh thần cách mạng tiến công và niềm tin bất diệt của ông vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam; tấm gương đạo đức cách mạng sáng trong, mẫu mực của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vẫn luôn có sức lay động và lan tỏa sâu sắc tới mọi tầng lớp nhân dân, nhất là những cán bộ, chiễn sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam. 

Được sống và làm việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày tháng đẹp nhất của cuộc đời mình, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có rất nhiều kỷ niệm về những lần đến làm việc cùng Bác ở ngôi nhà sàn; đến nơi Bác ở để cùng đón Bác đi công tác ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Nguyên, Hà Tây…; đến báo cáo công việc và chào Bác trước những chuyến đi vào chiến trường miền Nam khói lửa, cùng đồng bào miền Nam chiến đấu cho khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước để sớm được đón Người vào thăm… 

Bên Người, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã học tập và làm theo tấm gương đạo đức sáng ngời của người cha già dân tộc. Là người luôn thực hành đạo đức Hồ Chí Minh, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã học được ở Người tinh thần đạo đức cách mạng cao cả, hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc và nhân dân; ở lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, lăn lộn với phong trào thi đua yêu nước, với sự nghiệp kiến thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kiên cường đấu tranh ở miền Nam; ở tấm gương mẫu mực của một nhà chiến lược tầm cỡ của cách mạng Việt Nam luôn sâu sát thực tiễn và gần dân; ở phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong và nếp sống giản dị, đời tư trong sáng; ở việc ra sức chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham ô, lãng phí, quan liêu do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. 

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là hình ảnh tiêu biểu của “Anh bộ đội Cụ Hồ”, là một trong những cán bộ lỗi lạc của cách mạng Việt Nam, của Đảng, Nhà nước và quân đội ta; người con ưu tú của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh quang vinh. Noi theo tấm gương của Bác, luôn xuất phát từ thực tiễn để tìm ra các quy luật và nhân rộng thành các phong trào lớn; luôn chú trọng các phong trào thi đua; luôn lắng nghe dân, vận động quần chúng chứ không dùng mệnh lệnh để lãnh đạo và chỉ đạo phong trào, tinh thần đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mãi là tấm gương để các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ học tập và noi theo. 

Trọn đời mình, Đại tướng đã dâng hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và Quân đội nhân dân Việt Nam. Bất kỳ ở đâu, làm bất cứ việc gì, Đại tướng cũng xứng đáng với niềm tin yêu và nhất mực tin cậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn là tấm gương mẫu mực về tính tiền phong, khiêm tốn, giản dị, ham học hỏi, đoàn kết, sống có tình nghĩa, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng bào./.

Nguyễn Văn Công
Giám đốc Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

-----------
 
(1)Báo Quân đội Nhân dân ngày 1/9/1959

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất