Việt Nam nhập siêu lớn từ Trung Quốc không còn là câu chuyện mới, nhưng
trong bối cảnh tình hình Biển Đông đang "dậy sóng," nhu cầu đa dạng hóa
thị trường càng trở nên cấp thiết. Muốn vậy, các cơ quan chức năng cần
có những phân tích nghiên cứu và dự báo thị trường để giúp doanh nghiệp
chủ động ứng phó.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho rằng đây cũng chính là cơ hội
để doanh nghiệp Việt Nam dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào nguồn nguyên
liệu chủ yếu từ Trung Quốc.
Hơn nữa, các doanh nghiệp trong nước cần chủ động nguồn nguyên phụ liệu
và nên chuyển hướng tìm kiếm các nguồn nhập khẩu từ các nước trong khu
vực ASEAN, tránh phụ thuộc vào một thị trường nhất định.
“Đói” nguồn cung
Trên danh mục quan hệ thương mại hiện nay, Trung Quốc đang giữ vị trí
đầu trong việc cung cấp nguồn nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất cho Việt
Nam.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas) cho biết
ngành dệt may đang phụ thuộc quá lớn vào nguồn vải nhập khẩu với tỷ lệ
86%, riêng Trung Quốc chiếm tới 46%. Đây là “nút thắt cổ chai” trong
chuỗi cung ứng dệt may của Việt Nam.
Do vậy, chỉ cần một nửa nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu từ Trung
Quốc “gặp trục trặc” thì doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã lâm vào cảnh
khốn khó với đầu vào cho sản xuất.
Thực tế cho thấy, 10 năm trở lại đây Việt Nam đã sản xuất được một số
sản phẩm có tính chiến lược của ngành khiến các doanh nghiệp dệt may chủ
động được phần nào nguồn cung nguyên phụ liệu.
Đơn cử như sản phẩm vải veston đã có 7 nhà máy sản xuất; vải kaki,
vải jeans cao cấp cũng đã có 6 nhà máy sản xuất, còn các nguyên phụ liệu
khác như dây kéo, mếch dựng và các sản phẩm phụ liệu hỗ trợ khác hiện
nay đều được sản xuất trong nước.
Song song với việc đẩy mạnh sản xuất nguyên phụ liệu trong nước, Việt
Nam đang đẩy mạnh việc phối hợp với các doanh nghiệp trong khối ASEAN
và một số doanh nghiệp trong nước đã chủ động đặt những đơn hàng có tính
chiến lược dài hơi để tạo sự ổn định cho nguồn nguyên phụ liệu.
Theo ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty
May Hưng Yên, bên cạnh con số tăng trưởng xuất khẩu thì vấn đề cốt lõi
hiện nay là phải giảm phụ thuộc nguyên phụ liệu từ nước ngoài bằng cách
nội địa hóa các nguyên phụ liệu, tập trung gia tăng giá trị sản phẩm.
Vì thế, công ty đang chuyển sang phương thức mua đứt bán đoạn (FOB) và
đẩy mạnh sử dụng nhiều nguyên phụ liệu trong nước, trong đó nội địa hóa
một số nguyên phụ liệu để phục vụ cho đơn hàng FOB hoặc đẩy mạnh mua
nguồn vải ở các thị trường khác như Thái Lan, Singapore... nhằm giảm bớt
việc phụ thuộc vào nguyên liệu ở một thị trường.
Ông Nguyễn Chí Trung - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Giày Gia Định chia
sẻ để sản xuất gần 3 triệu đôi giày xuất khẩu trong năm 2014 thì có tới
hơn 60% nguyên phụ liệu sản xuất công ty phải nhập từ Trung Quốc. Dù
100% đơn hàng làm theo phương thức FOB nhưng có đến 90% nguồn nguyên phụ
liệu sản xuất đều do nhà đặt hàng chỉ định mua, phần lớn là từ Trung
Quốc. Chỉ có 10% còn lại công ty tự chủ động nguồn cung do tự thiết kế
và sản xuất.
"Sở dĩ xảy ra tình trạng này bởi có một thực tế không thể phủ nhận là
việc phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước quá kém khiến việc
chuyển hướng tìm nguồn nguyên phụ liệu thay thế từ nước khác, nhất là
khi một số chủng loại hầu như phải nhập toàn bộ từ Trung Quốc như thuốc
nhuộm, hóa chất, phụ liệu trang trí... đòi hỏi phải có lộ trình. Dù
chính sách phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ đã có từ hàng chục năm
qua nhưng đến nay vẫn giậm chân tại chỗ," ông Trung nói.
Căng thẳng với Trung Quốc ở Biển Đông không chỉ khiến các doanh nghiệp
phải nhập nguyên phụ liệu đầu vào phải băn khoăn, mà cả những doanh
nghiệp xuất khẩu sang thị trường này cũng khá lo lắng.
Theo ông Đinh Văn Hương - Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nhiều
doanh nghiệp trong lĩnh vực này “sống dở chết dở” và đi đến phá sản do
nguồn nguyên liệu bị Trung Quốc thao túng. Nông sản xuất khẩu khi thừa,
khi thiếu, không ổn định đã gây khó khăn trong việc phát triển các doanh
nghiệp chế biến nông sản.
Chia sẻ cụ thể hơn về những rủi ro này, ông Phạm Vũ Hà - Tổng Thư ký
Hiệp hội Sắn Việt Nam cho hay, 85% sản lượng xuất khẩu sắn và sản phẩm
từ sắn của Việt Nam là xuất sang thị trường Trung Quốc. Sản phẩm tinh
bột sắn, sắn lát Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào thị trường này.
Sản lượng xuất khẩu sang một số thị trường khác như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Nga... không đáng kể hoặc đang trong giai đoạn thăm dò. Các thị trường
này cũng đặc biệt khó tính, đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao và nghiêm
ngặt trong khi sản phẩm của Việt Nam chưa đáp ứng được.
Tuy nhiên, trên thực tế, doanh nghiệp sắn lại đang bị ùn ứ, tồn đọng sản
phẩm do thương nhân Trung Quốc “quay lưng,” chuyển sang mua hàng từ thị
trường khác.
Để giảm bớt phụ thuộc vào nguyên phụ liệu từ nước ngoài, các chuyên gia
thương mại khuyến cáo cần phải có chiến lược đầu tư vùng nguyên liệu
cũng như các cơ sở sản xuất giúp sản phẩm xuất khẩu Việt Nam tham gia
sâu hơn trong chuỗi giá trị, từ đó hàng xuất khẩu có thể tham gia vào
nhiều thị trường khác nhau với giá trị cao hơn.
Chủ động xoay sở
Bằng việc chủ động nắm bắt và dự báo tình hình, ngay từ giữa tháng
5/2014, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã có công văn gửi các doanh nghiệp
trong ngành chủ động tìm các thị trường tiềm năng khác để nhập khẩu,
tránh phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc.
Các thị trường tiềm năng khác mà Việt Nam có thể hợp tác là nhập khẩu xơ
từ thị trường Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia, nhập khẩu sợi từ thị
trường Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ; nhập khẩu vải từ thị trường Hàn Quốc,
Thái Lan và Malaysia... để đa dạng hóa nguồn nguyên liệu.
Trong khi chờ đợi chiến lược phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cho
ngành dệt may và da giày, một số doanh nghiệp đã tự xoay sở đa dạng hóa
nguồn nguyên liệu.
Theo ông Vũ Đức Giang, để chủ động nguồn cung nguyên phụ liệu, ngành dệt
may đã và đang tập trung khá mạnh vào lĩnh vực sợi, dệt, kể cả nguyên
liệu mới (xơ viscose, len...) từng bước giảm nhập khẩu.
Trong một số dự án mà Tập đoàn Dệt May Việt Nam đang và sắp triển khai
với số vốn đầu tư lên đến hơn 2.000 tỷ đồng, ngành dệt may sẽ được bổ
sung hơn 40.000 tấn sợi/năm và 20 triệu mét vải/năm so với năng lực hiện
tại.
Ngoài ra, Tập đoàn này cũng có kế hoạch đầu tư hơn 10.000 tỷ đồng triển
khai các dự án nguyên liệu mới và nguyên liệu nguồn trồng bông, trồng
cây bạch đàn để làm bột gỗ DWP dùng sản xuất xơ viscose, len lông cừu từ
nay cho đến năm 2020 cũng nhằm giảm bớt sự chi phối từ nguồn cung
nguyên phụ liệu bên ngoài.
Một số doanh nghiệp ngành may mặc còn cho rằng nâng chất lượng và phẩm
cấp hàng xuất khẩu là một trong những giải pháp mà các doanh nghiệp
trong nước phải chủ động chuẩn bị để giảm bớt sự phụ thuộc nguồn cung
nguyên phụ liệu từ Trung Quốc.
Theo ông Nguyễn Xuân Dương, thay vì hài lòng và chấp nhận chủng loại
xuất khẩu như hiện tại, các doanh nghiệp cần hướng tới việc nâng cao
năng lực sản xuất, tay nghề người lao động, đầu tư hạ tầng chuyên sâu để
thu hút được nhà đặt hàng đặt các sản phẩm có giá trị gia tăng cao,
đồng thời xúc tiến phát triển thị trường ngách ngoài những thị trường
truyền thống và các thị trường có các hiệp định thuế quan sắp ký trong
thời gian tới.
Cùng với đa dạng thị trường nhập khẩu, để chủ động nguồn cung nguyên
liệu về lâu dài, Việt Nam cần tính đến việc xây dựng nguồn cung cấp ngay
tại trong nước và tăng tỷ lệ nội địa hóa nguồn nguyên liệu. Tuy nhiên,
để nâng cao năng lực sản xuất trong nước cần sự nỗ lực của doanh nghiệp
và chính sách hỗ trợ đồng bộ của Nhà nước.
Về phía Bộ Công Thương, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng nhấn mạnh Việt Nam đang
đẩy mạnh đàm phán Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EU)
và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Việc tham gia các hiệp định thương mại này sẽ mở cửa thị trường hàng
hóa, tạo điều kiện cho những mặt hàng có lợi thế của Việt Nam như dệt
may, da giày, nông sản... thâm nhập với quy mô lớn hơn vào các thị
trường tiềm năng, giảm bớt phụ thuộc vào một vài thị trường xuất khẩu
nhất định và đảm bảo xuất khẩu ổn định, bền vững./.
Uyên Hương (TTXVN)