Thứ Bảy, 27/4/2024

Bàn thêm về vai trò của văn hóa từ chiều cạnh hệ động lực nội sinh và hệ điều tiết hài hòa sự phát triển

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với cán bộ, nhân dân thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh _Ảnh: TTXVN

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với cán bộ, nhân dân thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh _Ảnh: TTXVN

1- Những nội dung lớn về văn hóa không chỉ nằm trong phần VII của Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, mà còn được trình bày như một thành tố quan trọng trong tất cả các phần khác của Văn kiện Đại hội XIII, từ kinh tế đến xây dựng, chỉnh đốn Đảng; từ chiến lược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đến nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm tới (2021 - 2025). Điều đó không chỉ thể hiện trong kết cấu hình thức của các văn bản, mà còn thể hiện sự nhất quán trong quan điểm của Đảng với tư duy sâu sắc về văn hóa: “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người”(1)... Có nghĩa là, văn hóa vừa là chính nó với những sản phẩm phong phú, đa dạng, muôn vẻ, vừa là nhân tố nằm trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người, xác định trình độ phát triển và chất lượng, giá trị của con người và của toàn bộ đời sống xã hội. Như vậy, phải đưa yêu cầu, chuẩn mực văn hóa thành một nhân tố bên trong, giữ vai trò đặc biệt quan trọng của sự phát triển. Cái mới của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là văn hóa được đề cập cả trực tiếp và gián tiếp hầu như trong tất cả 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, trong đó, định hướng thứ tư đã nhấn mạnh vai trò văn hóa, con người Việt Nam là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc... Tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(2).

Vậy, nội hàm của động lực này là gì? Nhìn từ thực tiễn, động lực này là sức mạnh (chủ yếu là sức mạnh tinh thần), song, động lực này còn ở dạng tiềm ẩn, cần phải “kích hoạt” thì mới có thể chuyển hóa thành sức mạnh vật chất. Kinh nghiệm thực tiễn cực kỳ quý báu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, của những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và thời kỳ đổi mới đất nước đã cho chúng ta những bài học về tài năng, năng lực “kích hoạt” động lực văn hóa của Bác Hồ và của Đảng ta. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(3). Bốn nhân tố: tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước đều là giá trị văn hóa truyền thống quý báu, lâu đời của dân tộc và chính là những giá trị văn hóa cốt lõi trong hệ giá trị văn hóa, hệ động lực do văn hóa Việt Nam tạo ra.

Đây là điểm nhấn và tư tưởng cực kỳ quan trọng của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trở thành niềm cảm hứng mới, mạnh mẽ, niềm hy vọng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân. Nếu không khơi dậy được các nhân tố đó, không thúc đẩy được khát vọng phát triển đất nước của toàn dân thì mục tiêu “đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao” sẽ gặp nhiều khó khăn. Lực lượng chủ công thực hiện mục tiêu đó là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; song, thế hệ gánh trên vai trọng trách này và sẽ đi suốt trong 25 năm tới (2021 - 2045) là những người thuộc lứa tuổi từ 15 đến 45! Có nghĩa là ngay từ bây giờ, trong những tháng năm đầu tiên triển khai thực hiện mục tiêu trên, Đảng và hệ thống chính trị phải có một loạt những bước đi, “thao tác”, giải pháp sáng tạo, linh hoạt, đồng bộ, có hiệu quả lâu dài để khai thông, khơi dậy chủ thể quan trọng của các động lực trên, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Văn hóa là động lực quan trọng của sự phát triển bền vững, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phải trở thành những nhân tố trực tiếp tạo nên nội hàm của động lực đó, bởi vì, theo hầu hết các định nghĩa được chấp nhận về văn hóa nhìn ở phương diện bao quát nhất, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ thuộc về văn hóa, là văn hóa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã xác định điều này. Sau này, do tầm quan trọng, được khẳng định là “quốc sách hàng đầu”, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ mới được tách ra để bàn sâu, kỹ và toàn diện hơn. Nhận rõ nội hàm của văn hóa theo nghĩa chung, bao quát nhất, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đồng thời nhấn mạnh và gắn kết các nội dung vào một cụm từ xác định tính đột phá chiến lược trong thời kỳ mới: “Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam”(4).

Nếu nhìn từ mối quan hệ giữa kế thừa và phát triển, tại Đại hội XIII của Đảng, nội dung phát triển về lý luận và tổng kết thực tiễn về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ thể hiện tính bứt phá hơn cả. Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, hai lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thực trạng đó đòi hỏi phải được khắc phục, vì vậy, tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Phải xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”(5). Có hai yêu cầu đặt ra, được nhấn mạnh nhiều lần đối với hai lĩnh vực này là nguồn nhân lực chất lượng cao và đào tạo, sử dụng nhân tài. Đánh giá một cách khách quan, đó cũng là hai vấn đề lớn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra thời gian qua. Trước yêu cầu trong bối cảnh mới, để thực hiện được các mục tiêu phát triển đất nước, giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ cần là động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước, trong đó “nguồn lực con người là quan trọng nhất”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không chỉ tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ đào tạo nhân lực chất lượng cao, mà còn nêu ra yêu cầu mới là: “có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia cả trong và ngoài nước”(6). Cũng xuất phát từ tư duy đổi mới trên mà Văn kiện Đại hội XIII đã nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng bao trùm “phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”(7) và coi đó là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đây chính là chủ trương quan trọng được thông qua tại Đại hội XIII của Đảng. Nói văn hóa là động lực của sự phát triển chính là khẳng định dứt khoát, mạnh mẽ tư tưởng chỉ đạo mới này. Đó là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn.

Vậy, phải làm gì để văn hóa thực sự là động lực nội sinh của sự phát triển đất nước. Nghị quyết số 33/NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã khẳng định lại tư tưởng vô cùng quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải coi trọng ngang nhau cả 4 yếu tố: kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội trong xây dựng đất nước (điều mà trước đây có lúc chúng ta chưa thực sự quán triệt đúng đắn trong chỉ đạo thực tiễn). Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định một trong ba đột phá chiến lược phát triển đất nước giai đoạn tới là tập trung cho văn hóa (giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam...). Đó là tư tưởng chỉ đạo quan trọng để biến tiềm lực văn hóa thành động lực, thành sức mạnh phát triển đất nước.

Riêng đối với con người Việt Nam, tư tưởng cần được quán triệt hàng đầu là “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với việc giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(8). Thời gian qua, chúng ta đã và đang nghiên cứu, nhưng chưa xác định, vì thế chưa thể triển khai xây dựng các hệ giá trị này. Lúc này, hơn bao giờ hết, cần thực hiện đồng thời cả ba khâu đó để phát huy nguồn lực con người và động lực văn hóa trong thực tiễn. Việc phát triển đồng bộ tất cả các lĩnh vực cụ thể của văn hóa, kết hợp biện chứng, thường xuyên giữa “xây” và “chống”, hội tụ tính ưu việt và sức mạnh của các loại hình văn hóa vì nhiệm vụ xây dựng con người là những giải pháp quan trọng để phát huy tốt nhất vai trò động lực của văn hóa cho phát triển đất nước.

2- Khi nói văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, vào từng con người, từng gia đình, từng cộng đồng, có nghĩa là những giá trị, những chuẩn mực đã trở thành nhu cầu tự thân, bên trong, thành “bản năng thứ hai” trong con người. Bằng cách đó, văn hóa chi phối trực tiếp và sâu sắc toàn bộ suy nghĩ, tình cảm, hành vi, quan hệ của con người với thế giới xung quanh, với tự nhiên, xã hội, với cộng đồng và với chính mình. Tất cả đều được “quy chiếu” từ chuẩn mực văn hóa giúp cho con người sống theo các giá trị chân - thiện - mỹ. Với ý nghĩa đó, chức năng điều tiết của văn hóa giữ vị trí vô cùng quan trọng, giúp cho việc xây dựng, nuôi dưỡng cái tốt đẹp, cái chân chính, đúng đắn, cao thượng,... và góp phần “phanh lại” cái xấu xa, độc ác, giả dối, tầm thường... Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không trực tiếp đề cập đến chức năng này, song tư tưởng xuyên suốt khi luận bàn về văn hóa là vận dụng ở mức cao nhất tính ưu việt và sức mạnh điều tiết của văn hóa. Sự điều tiết đó sẽ tạo ra tính hài hòa trong các quan hệ từ vi mô đến vĩ mô trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, của mỗi quốc gia, dân tộc. Một câu hỏi đặt ra là vì sao văn hóa lại có sức mạnh điều tiết, chức năng điều tiết sự phát triển? Luận cứ khoa học, lịch sử và thực tiễn của nó là ở đâu?

Có thể thấy, thành quả của sự phát triển văn hóa luôn được thể hiện ở hai dạng sản phẩm chính. Một là, các sản phẩm cụ thể mà ta nhìn thấy được, nghe được, trực tiếp tiếp nhận, thụ hưởng, thường xuyên biến đổi, như một lễ hội, một bản nhạc, một bức tranh, một bộ phim, một cách ứng xử... Trong lịch sử, loài người nói chung và mỗi dân tộc nói riêng, đã tạo ra vô vàn các sản phẩm văn hóa cụ thể đó. Hai là, các giá trị văn hóa từ chính các sản phẩm đó khi thấm sâu vào đời sống con người lại tạo ra những nhân tố định hình, có tính bất biến để tạo ra cái riêng, cái độc đáo, cái cốt cách của một cộng đồng, một dân tộc. Nếu cấu trúc bề mặt, nhìn thấy được là các sản phẩm văn hóa cụ thể, thì cấu trúc chiều sâu của văn hóa chính là hệ giá trị được tạo ra trong xã hội và trong con người. Nếu cái cụ thể luôn biến đổi, nảy sinh và phát triển thì hệ giá trị văn hóa là cái gốc điều chỉnh mọi hoạt động xã hội, giữ tính liên tục, luôn tạo thế ổn định và định hướng phát triển. Có thể coi đó là hai mặt động - tĩnh của phát triển văn hóa, trong đó “cái tĩnh” (hệ giá trị, hệ chuẩn mực văn hóa) vừa là kết quả của “cái động”, vừa đóng vai trò định hướng và điều chỉnh “cái động”, cái biến đổi trên bề mặt của văn hóa. Theo tiến trình lịch sử, các hằng số này được đúc kết, bổ sung và định hình trong cộng đồng và nhân cách con người, và khi nó trở thành phẩm giá, thành bản ngã, cốt cách nằm trong tâm thức con người (hay nói cách khác, thành “bản năng thứ hai” trong con người), thì các giá trị, các hằng số đó có khả năng và có đủ sức mạnh để điều chỉnh, điều tiết mọi hoạt động sống của con người. Như vậy, để có năng lực, sức mạnh điều tiết, cùng với việc sản xuất ra các sản phẩm cụ thể, đa dạng, phong phú, văn hóa phải từ đó thấm sâu vào đời sống con người để xây đắp nên các giá trị, các chuẩn mực. Đó là con đường và đích đi tới của một nền văn hóa, vừa làm phong phú cho đời sống hằng ngày của con người, vừa tạo nên các giá trị trong nhân cách con người, trở thành nền tảng tinh thần, có sức mạnh định hướng và điều tiết xã hội phát triển bền vững.

Khi nói đến hệ giá trị tinh thần - văn hóa, người ta thường đồng thời chỉ ra các nhân tố quan trọng trong hệ giá trị đó: giá trị chính trị, giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị pháp luật, giá trị thẩm mỹ. Từ các giá trị này, cần xây dựng các chuẩn mực cụ thể để định hướng, điều chỉnh mọi hoạt động của xã hội và con người. Chính các chuẩn mực này trở thành thước đo để điều tiết sự phát triển. Điều quan trọng hàng đầu là phải làm cho mỗi cộng đồng, mỗi cá nhân nhận thức một cách tự giác những giá trị và chuẩn mực văn hóa tốt đẹp, để tự định hướng, tự điều chỉnh mọi suy nghĩ và hành vi. Đó chính là kết quả của sự điều tiết thông qua văn hóa, bằng các giá trị và chuẩn mực văn hóa, nhận thức được cái gì là “hợp chuẩn” và cái gì là “lệch chuẩn”. Không xử lý đúng đắn mối quan hệ này sẽ dẫn tới những tác hại khó lường, chưa kể tới việc xuất hiện sự “loạn chuẩn” trong xã hội khi những chuẩn mực, giá trị văn hóa rơi vào tình trạng hoặc bị coi thường, hoặc tạo sự lúng túng trong lựa chọn chân giá trị của cộng đồng, của cá nhân. Hiện nay, chúng ta đang bước vào một thời kỳ mới với nhiều biến đổi, biến động phức tạp, khó lường, nhất là tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình chuyển đổi xã hội. Lúc này, vai trò điều tiết của văn hóa trở nên rất quan trọng. Chuẩn mực văn hóa sẽ giúp cho mỗi người lựa chọn tỉnh táo, điều chỉnh suy nghĩ, tình cảm, hành vi, quan hệ xã hội. Con người sẽ rơi vào cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, tham lam, ích kỷ... nếu thiếu khả năng, thậm chí không có khả năng điều chỉnh hành vi, lối sống. Những thói hư, tật xấu, cái ác; sự thoái hóa, biến chất của không ít cán bộ có chức, có quyền xuất hiện trong thời gian gần đây đã minh chứng rất rõ cho hệ lụy nghiêm trọng khi có nơi, có lúc, văn hóa chưa phát huy được vai trò điều tiết.

Sức mạnh điều tiết của văn hóa không chỉ dừng lại ở phạm vi đạo đức, ứng xử trong quan hệ cộng đồng, quan hệ con người với con người, hay trong bản thân mỗi con người, hay dừng lại ở việc tạo nên sự hài hòa cụ thể, vi mô mà cao hơn, nó còn phát huy tác dụng trong điều chỉnh các quan hệ lớn, tạo nên sự phát triển cân đối, hài hòa, đồng bộ giữa các lĩnh vực quan trọng của đời sống, của mỗi quốc gia, dân tộc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định 10 mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề cốt lõi về đường lối đổi mới mà Đảng ta cần tiếp tục “nắm vững và xử lý tốt”... “tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện”(9). Ở đây, vai trò của văn hóa chính trị giữ vị trí cực kỳ quan trọng. Khi yêu cầu xử lý tốt, không được cực đoan, phiến diện chính là nói đến chức năng, năng lực điều tiết của cấp lãnh đạo và người lãnh đạo khi chỉ đạo giải quyết các quan hệ đó; đòi hỏi không chỉ phương pháp hay nghệ thuật xử lý vấn đề mà còn đòi hỏi ở mức độ cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ văn hóa, sự nhạy cảm và tỉnh táo của người xử lý.

Để thấy rõ hơn vai trò điều tiết sự phát triển của văn hóa, có thể xem xét cụ thể một mối quan hệ trong 10 mối quan hệ đã được Đại hội XIII của Đảng xác định. Đó là mối quan hệ mới được bổ sung ở Đại hội XIII là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Xử lý biện chứng mối quan hệ này sẽ tạo sự ổn định và phát triển; ngược lại, khi không xử lý hiệu quả, sẽ dẫn tới hoặc là chuyên quyền, mất dân chủ hoặc là rối loạn xã hội do kỷ cương, phép nước, pháp chế bị “nhờn hóa”. Vai trò điều tiết của văn hóa trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định dẫn tới một trong hai xu hướng trên. Vì vậy, đây không chỉ là vấn đề ứng xử thông thường mà là vấn đề đặt ra cấp thiết cả trên hai phương diện chính trị và văn hóa; có nghĩa là phải đồng thời xử lý và giải quyết trên hai bình diện chính trị và văn hóa, trong đó chuẩn mực văn hóa phải trở thành nhân tố điều tiết hài hòa giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội trong đời sống xã hội của cả cộng đồng và từng cá nhân, của Nhà nước và công dân. Tạo cho được tính hài hòa sẽ giúp cho con người biết làm gì cho mình có văn hóa hơn, để trở nên Người hơn, gạt bỏ những điều thiếu văn hóa, không phá rối kỷ cương, phép nước; đồng thời, đòi hỏi Nhà nước, chính quyền phải thực hành dân chủ thực sự, phát huy vai trò và quyền làm chủ của nhân dân.

Như vậy, có thể thấy, hai vế xây và chống là giải pháp quan trọng giúp cho chức năng điều tiết của văn hóa được phát huy hiệu quả. Điều này thể hiện trong các nội dung, nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa được trình bày trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Một mặt, Văn kiện khẳng định cần tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc,bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam...; mặt khác, nhấn mạnh yêu cầu thực hiện các giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội; từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam để đạt tới mục tiêu “xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(10); qua đó giúp phát huy tốt vai trò động lực và điều tiết của văn hóa, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững./.

GS, TS. ĐINH XUÂN DŨNG
Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương

 

Nguồn: Tạp chí Cộng sản

__________________________________

(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 54
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 115 - 116, (tác giả in nghiêng để nhấn mạnh)
(3), (4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 34, 220, 136
(6), (7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 221 (tác giả in nghiêng để nhấn mạnh), 214, 143
(9), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 39, 143

Phản hồi

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất