Ngày 8/1, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà ký Quyết định số 22/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Đồng Nai thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Quyết định nêu rõ, phạm vi
lập quy hoạch gồm diện tích lưu vực sông Đồng Nai thuộc địa giới hành
chính Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bình
Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đắk Nông, Lâm Đồng (không kể phần
diện tích thuộc tỉnh Long An được đưa vào Quy hoạch tổng hợp lưu vực
sông Cửu Long) và phần diện tích các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận là
vùng nhận chuyển nước từ lưu vực sông Đồng Nai (gọi chung là vùng quy
hoạch) và được phân chia thành 6 tiểu vùng quy hoạch, gồm: Thượng lưu
sông Đồng Nai; hạ lưu sông Đồng Nai; sông Sài Gòn - thượng Vàm Cỏ; sông
Bé; sông La Ngà và phụ cận ven biển.
Mục tiêu tổng quát nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực sông
và toàn vùng quy hoạch; tích trữ, điều hòa, phân phối tài nguyên nước
một cách công bằng, hợp lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn
nước gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước nhằm đáp ứng
nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, bảo tồn hệ sinh thái, thảm phủ thực
vật và đa dạng sinh học.
Bên cạnh đó, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống suy thoái, cạn kiệt,
ô nhiễm nguồn nước và tác hại do nước gây ra, có lộ trình phục hồi
nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm, đáp ứng yêu cầu quản lý tổng
hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông và thích ứng với biến đổi khí
hậu. Từng bước thực hiện mục tiêu chuyển đổi số quốc gia trên cơ sở xây
dựng, vận hành hệ thống thông tin, dữ liệu tài nguyên nước, bảo đảm kết
nối với hệ thống thông tin tài nguyên môi trường và các ngành có khai
thác, sử dụng nước.
Mục tiêu đến năm 2030, phấn đấu đạt 100% các nguồn nước liên tỉnh
được công bố khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải. 80% công trình
khai thác, sử dụng nước được giám sát vận hành và kết nối hệ thống theo
quy định. 70% hồ, ao, kênh, rạch có chức năng điều hòa, có giá trị cao
về đa dạng sinh học, lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng không được san lấp
được công bố và quản lý, bảo vệ.
Các mục tiêu tiếp theo là hoàn thành việc lập và công bố hành lang
bảo vệ nguồn nước, đảm bảo lưu thông dòng chảy, phòng chống sạt lở bờ,
bãi sông, giảm thiểu tác hại do nước gây ra; 100% khu công nghiệp, khu
chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung được xử lý đạt quy chuẩn
kỹ thuật theo quy định trước khi xả vào nguồn nước; 40% đến 45% lượng
nước thải tại các đô thị từ loại II trở lên và 25% đến 30% lượng nước
thải tại các đô thị từ loại V trở lên được thu gom, xử lý đạt quy chuẩn
kỹ thuật theo quy định trước khi xả vào nguồn nước.
Tầm nhìn đến năm 2050, duy trì, phát triển tài nguyên nước, điều hòa,
phân phối nguồn nước bảo đảm an ninh nguồn nước, thích ứng với biến đổi
khí hậu và phù hợp với các điều ước quốc tế, hợp tác song phương, đa
phương liên quan đến tài nguyên nước mà Việt Nam đã tham gia.
Tăng cường bảo vệ tài nguyên nước, bảo đảm số lượng, chất lượng nước
đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giảm thiểu tác hại
do nước gây ra. Hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên
nước được thực hiện theo phương thức trực tuyến trên cơ sở quản trị
thông minh.
Phục hồi các khu vực bị suy giảm mực nước dưới đất quá mức, các dòng
sông, kênh, rạch bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nghiêm trọng; phòng,
chống sạt, lở bờ sông, kênh, rạch có hiệu quả, kiểm soát được cao độ đáy
sông, hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông; bố trí lại dân cư ven
sông và các biện pháp khác để từng bước nâng cao giá trị cảnh quan ven
sông.
Bổ sung và nâng cao một số chỉ tiêu của quy hoạch, quản lý tổng hợp
tài nguyên nước phù hợp với giai đoạn phát triển của quốc gia, ngang
bằng với các quốc gia phát triển trong khu vực; bảo đảm an ninh nguồn
nước, nâng cao giá trị sử dụng nước phù hợp với xu hướng phát triển
chung của thế giới.../.
TTXVN