Những quan niệm mới về chủ quyềnf
Có
thể nói rằng, chủ quyền số quốc gia là một khái niệm mới, và cho đến
nay, trên toàn thế giới vẫn chưa thống nhất được một định nghĩa nào có
thể khái quát được phạm vi, nội dung của nó, cũng như chưa có một quốc
gia nào khẳng định được chủ quyền của mình trong không gian số. Tuy
nhiên, có thể điểm ra một vài quan niệm của thế giới về chủ quyền số như
sau.
Năm 2011, một nhóm các nhà hoạt động xã hội của Canada đã
trình lên Chính phủ nước này lá thư đề nghị phải tăng cường chủ quyền
số quốc gia trên không gian mạng. Khái niệm chủ quyền số quốc gia mà
nhóm này đưa ra bao hàm nghĩa hẹp. Họ đưa ra lập luận rằng: cũng giống
như không gian đất liền, trên biển hoặc trên không, ở trong không gian
số, các quốc gia cũng có những quyền lợi trong không gian của mình. Họ
cho rằng, ở trong không gian số đó, các nước có thể đưa ra các dịch vụ
và có quyền khai thác để phát triển kinh tế đất nước. Do đó, như các
không gian thông thường khác, chủ quyền của quốc gia trên không gian số
cũng cần phải được bảo vệ. Thí dụ họ đưa ra rất cụ thể, một công ty
Canada xây dựng và cung cấp dịch vụ nội dung số cho người dân nước này,
nhưng bản thân công ty đó cũng sử dụng rất nhiều cấu phần do các hãng
nước ngoài cung cấp, máy chủ lại nằm trên hệ thống của hãng lớn của Mỹ.
Câu hỏi họ đặt ra là, những thông tin đó đặt trên một máy chủ của một hệ
thống ở Mỹ rồi cung cấp thông tin đó cho người dân Canada, thì tính chủ
quyền của thông tin số này được bảo vệ như thế nào? Nếu không tính kỹ,
dịch vụ này của Canada có thể bị pháp luật của Mỹ quy định là trái phép
và ngừng cung cấp. Điều đó sẽ gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Và nhóm
này kêu gọi tổ chức quản lý Interrnet của Canada đứng ra nghiên cứu
vấn đề này đưa ra những biện pháp bảo vệ chủ quyền số.
Vào đầu
tháng 11-2012, trong cuộc họp bàn về chiến lược bảo đảm ATTT cho các hệ
thống thông tin của nước Nga trong nhiều năm tới, người chủ trì cuộc họp
đã kết luận: tất cả những việc chúng ta đang làm hôm nay là nhằm bảo
đảm chủ quyền số quốc gia của nước Nga. Như vậy khái niệm chủ quyền số
quốc gia ở đây rất rộng, bao hàm tất cả mọi mặt của an toàn, an ninh
thông tin của một quốc gia. Đó là một cách nhìn khác về chủ quyền số
quốc gia.
Trước đó, năm 2010, trong một cuộc tọa đàm về chủ quyền
số do Bộ Thông tin – Truyền thông Việt Nam tổ chức, ông Igor Ashmanov,
Giám đốc công ty Ashmanov của Nga và là một chuyên gia trong vấn đề này,
khẳng định chủ quyền số quốc gia là quyền và khả năng của một chính phủ
trong việc có thể tự chủ và độc lập xác định, thực hiện những chính
sách đối nội, đối ngoại trong lĩnh vực thông tin, sở hữu các tài nguyên
thông tin của mình nhằm xây dựng và bảo đảm cho hạ tầng thông tin quốc
gia.
Khẳng định chủ quyền quốc gia về không gian mạng
Mặc
dù chưa thống nhất quan niệm về chủ quyền số, nhưng một số quốc gia đã
lên tiếng khẳng định chủ quyền của mình trên không gian mạng.
Năm
2011, Bộ Quốc phòng Mỹ từng tuyên bố họ sẽ coi các cuộc tấn công trên
mạng như “một hành động chiến tranh” và có thể xem xét đáp trả bằng hành
động quân sự thực.
Và tháng 5-2012, Nhật Bản cũng đã tiếp bước Mỹ
khi chính quyền chính thức công nhận mạng điện tử “là khu vực thuộc về
an ninh quốc gia, như vùng đất, biển, vùng trời và không gian ngoài vũ
trụ”. Bộ Ngoại giao Nhật Bản khẳng định nước này có quyền tự phòng vệ
trước các cuộc tấn công trên mạng theo các luật pháp quốc tế hiện hành,
bao gồm hiến chương Liên Hiệp Quốc. Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản
Koichiro Gemba cho rằng, luật pháp quốc tế về chiến tranh cũng có thể
được áp dụng cho an ninh mạng. Hiến chương Liên Hiệp Quốc cho phép một
thành viên sử dụng vũ lực trong trường hợp tự vệ nếu bị tấn công cho tới
khi Hội đồng Bảo an LHQ có thể thực thi các biện pháp cần thiết nhằm
lặp lại hòa bình và an ninh.
Còn ở Việt Nam, chủ quyền quốc gia về
không gian mạng đã được đề cập trong Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị
lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020 như sau: “Nâng cao năng lực, làm chủ
công nghệ và hiệu lực, hiệu quả quản lý hệ thống hạ tầng thông tin, nội
dung thông tin phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Đảng, Nhà nước;
đáp ứng yêu cầu cung cấp, trao đổi thông tin của xã hội, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo đảm an toàn, an
ninh thông tin, chủ quyền quốc gia về không gian mạng”.
Như vậy,
mặc dù chưa có những quy định cụ thể về chủ quyền số, nhưng Đảng và Nhà
nước ta đã có những định hướng căn bản nhằm khẳng định chủ quyền của
mình trong không gian mạng.
Một trong những hoạt động nhằm từng
bức cụ thể hóa chủ trương của Đảng là Ngày An toàn thông tin Việt Nam
năm 2012 vừa qua, Bộ Thông tin - Truyền thông và Hiệp hội An toàn thông
tin (VNISA) đã thống nhất chọn chủ đề “Chung tay xây dựng hạ tầng thông
tin an toàn vì chủ quyền số quốc gia”. Trong ngày này, lãnh đạo Bộ chủ
quản đã kêu gọi toàn thể cộng đồng CNTT-TT, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các cơ quan truyền thông tích cực ủng hộ, hưởng ứng và cùng
“Chung tay xây dựng hạ tầng thông tin an toàn vì chủ quyền số quốc gia”.
Bảo vệ chủ quyền số mới chỉ bằng “du kích”
Mặc
dù đang từng bước coi không gian mạng mà một chủ quyền quốc gia cần
phải bảo vệ, nhưng trên thực tế, lực lượng để bảo vệ chủ quyền số ở nước
ta còn quá mỏng.
Theo Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VNISA Vũ
Quốc Thành, nếu đặt ra bài toán bảo đảm an toàn, an ninh của không gian
số thì từ hệ thống thông tin của người dùng, doanh nghiệp đến các cơ
quan Chính phủ, các hạ tầng CSTT quốc gia, điện nước và tất cả các lĩnh
vực điều khiển bằng hệ thống CNTT… đều nằm trong khái niệm cần được bảo
vệ. Vô hình trung, cũng giống như các không gian truyền thống khác, việc
bảo vệ đất liền có lục quân, biển có hải quân, bầu trời có không quân,
trong không gian số mới mẻ này, chúng ta sẽ phải có một lực lượng chuyên
trách để bảo vệ chủ quyền của mình.
“Điều này chưa nước nào đề
cập đến, nhưng trong tương lai thì biết đâu sẽ được nghĩ tới”, ông Thành
nói. Và so với việc cần có một lực lượng bảo vệ chủ quyền số quốc gia
rộng lớn kia, theo ông Thành, những lực lượng hiện tại bảo vệ an toàn
thông tin (ATTT) của chúng ta mới chỉ được coi là “dân quân, du kích”.
“Trước
đây, chúng ta chỉ hiểu đơn thuần rằng bảo vệ hệ thống của doanh nghiệp
là chúng ta bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ hệ thống CNTT của bộ này ngành
kia là chúng ta bảo vệ bộ ngành. Chúng ta đã làm những việc đơn lẻ như
thế mà chưa hiểu hết ý nghĩa chung là chúng ta đang góp phần bảo vệ chủ
quyền số của quốc gia”, ông Thành giải thích.
Còn giờ đây, khi vấn
đề chủ quyền số quốc gia được đặt ra, thì mỗi cá nhân, doanh nghiệp cho
đến cơ quan Nhà nước cũng đều đang góp phần bảo vệ chủ quyền số chung
của đất nước.
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, an toàn thông tin
của các cơ quan, doanh nghiệp vẫn luôn được đặt trong tình trạng báo
động. Trong Ngày ATTT năm nay, VNISA và VNCERT đã công bố báo cáo khảo
sát thường niên nhằm đánh giá mức độ nhận thức và ứng dụng ATTT trong
các tổ chức, doanh nghiệp. Có 507 tổ chức, doanh nghiệp đã tham gia cuộc
khảo sát này.
Kết quả cho thấy, từ đầu năm đến nay, xu hướng các
doanh nghiệp nhận biết tấn công mạng đã tăng lên. Khả năng đánh giá tổn
thất tài chính do bị tấn công đã tăng lên. Tuy nhiên vẫn có đến 70%
doanh nghiệp không đánh giá được động cơ tấn công của tội phạm, hoặc
động cơ không rõ ràng.
Trong tình hình kinh tế khó khăn, có 87%
doanh nghiệp cho rằng chi tiêu vì ATTT của họ không giảm. 57% cho rằng
chi tiêu này sẽ phải tăng lên trong năm 2013. Nhưng một con số đáng lưu ý
khác là, nếu năm 2010 chỉ có 7% doanh nghiệp giảm chi tiêu cho ATTT,
thì năm nay có đến 13% doanh nghiệp đã cắt giảm chi tiêu.
Vấn đề
là các doanh nghiệp Việt Nam cắt giảm chi tiêu cho ATTT trong khi mức
đầu tư bình quân cho ATTT lại đang rất thấp. Theo ông Vũ Quốc Thành, sau
nhiều năm theo dõi, VNISA thấy các doanh nghiệp mới chỉ dành cho ATTT
khoảng 2-3% ngân sách chi cho CNTT nói chung, trong khi mức đầu tư trung
bình trên thế giới là 10%. “Tất cả những yếu kém ở từng đơn vị nhỏ lẻ
như thế góp phần làm không gian chủ quyền số quốc gia yếu đi rất nhiều”,
ông Thành nói.
Một số liệu khác cũng vừa được công bố cuối năm
qua, đó là lần đầu tiên Ban Chỉ đạo Quốc gia về CNTT và Hội Tin học Việt
Nam đã đưa ra con số thống kê về cán bộ chuyên trách ATTT trong Việt
Nam ICT Index 2012. Theo đó, cán bộ chuyên trách ATTT trong các bộ ngành
chiếm 0,6%, trong các ngân hàng thương mại chiếm 1,1%, còn trong các
tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn tỷ lệ này là 0,1%.
Nhận xét về
tỷ lệ này, ông Nguyễn Trọng Đường, Vụ trưởng Vụ CNTT (Bộ Thông tin -
Truyền thông), Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT cho rằng đó
là do nhiều đơn vị tính cả cán bộ CNTT kiêm nhiệm cả ATTT. Còn nếu tính
gắt gao thì tỷ lệ còn thấp hơn nhiều!
Nếu đúng như vậy, lực lượng
chuyên trách ATTT của chúng ta chỉ là con số không tròn trĩnh. Thêm nữa,
các trường đại học trong nước cũng chưa đào tạo ngành ATTT. Những người
làm bảo mật hiện nay chủ yếu là tự học thêm hoặc được đào tạo qua các
khóa ngắn hạn.
Được biết, Bộ Thông tin – Truyền thông, mà cụ thể
là Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam VNCERT, đang tiến hành
soạn thảo Luật An toàn thông tin số để trình Quốc hội thông qua. Lúc đó,
khái niệm chủ quyền số, cách thức, nội dung để bảo vệ chủ quyền quốc
gia trong lĩnh vực mới mẻ này sẽ được đề cập và quy định rõ ràng hơn. Và
chúng ta sẽ có căn cứ pháp lý để bảo vệ tốt hơn không gian mạng.
Còn
trong lúc này, vẫn cần lắm ý thức của mỗi cá nhân, doanh nghiệp, cơ
quan nhà nước trong việc bảo vệ từng cái máy tính, trang web hay hệ
thống nội bộ của mình. Và việc giữ yên cho từng “mái nhà” bằng lực lượng
“du kích” như thế cũng là góp phần bảo vệ chủ quyền chung của quốc gia
trên không gian số.
LÂM THẢO
Nguồn: Nhân Dân