Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trước sự áp đảo về phương tiện và vũ khí chiến tranh của địch, “bí mật” là phương châm hàng đầu của quân đội ta, được quán triệt tuyệt đối ngay từ công tác hậu cần. Trước bom đạn của kẻ thù, chiếc bếp Hoàng Cầm giản dị đã phát huy hiệu quả thực tế, góp phần bảo đảm sức khỏe cho bộ đội ta chiến đấu và chiến thắng.
"VŨ KHÍ BÍ MẬT" CỦA LỰC LƯỢNG HẬU CẦN
Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân đội
ta gặp vô vàn thách thức khó khăn, ngay cả trong công tác hậu cần. Quân
đội dù anh dũng bao nhiêu vẫn cần được ăn uống đầy đủ để bảo đảm sức
khỏe. Nhưng với những bếp nấu củi truyền thống của ta, nấu ăn là việc
khó giấu kín, vì ban đêm thấy lửa, ban ngày thấy khói. Những dấu hiệu đó
dễ dàng thu hút máy bay địch đến ném bom, gây thương vong cho ta. Nhiều
tổ hậu cần buộc phải phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn ban đêm,
khi máy bay địch tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi vẫn không
tránh kịp tai họa. Cơm thường bị khê, sống. Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm
nguội lạnh, bộ đội ăn không đảm bảo sức khoẻ.
Tình trạng khó khăn này khiến anh nuôi Hoàng Cầm của Đại đoàn quân
tiên phong 308 rất trăn trở. Ông đã dày công nghiên cứu, thử nghiệm và
cuối cùng sáng tạo ra một kiểu bếp có thể nổi lửa mà không làm lộ sáng,
đặc biệt không làm bốc khói lên cao. Bếp được đào sâu xuống đất với
những đường rãnh giống như râu mực kéo dài ra xa, phía trên phủ cành cây
hoặc đất ẩm tạo thành những ống thoát khói. Khói tỏa theo các đường
rãnh, bốc lên bị cây và đất ẩm lọc và cản lại, lan ra, là là trên mặt
đất, nhẹ như làn sương buổi sớm. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu, trên
lợp nilon hoặc lá, vừa để đồ, vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút
lửa mạnh hơn.
Bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù hợp với bộ đội thời chiến, kín lửa,
khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối vẫn không sợ máy
bay địch phát hiện. Tháng 10 năm 1952, đơn vị quyết định lấy tên người
chiến sỹ sáng tạo ra để đặt tên bếp, gọi là Bếp Hoàng Cầm. Mô hình bếp
nấu độc đáo này nhanh chóng phổ biến đến các đơn vị trong quân đội và
ứng dụng rất hiệu quả trong nhiều chiến dịch lớn của ta, đặc biệt là tại
chiến dịch Điện Biên Phủ.
GIẢN DỊ VÀ ANH HÙNG
Chiến dịch Điện Biên Phủ là trận đánh có quy mô lớn nhất, dai dẳng,
kéo dài nhất, ác liệt nhất giữa ta và địch. Việc đảm bảo cung cấp và
nuôi quân để bộ đội chiến đấu là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và là một
thành công lớn của chiến dịch. Đến đầu tháng 2/1954, lực lượng chiến đấu
của ta ở lòng chảo Điện Biên đã lên tới 43.000 người, nhu cầu vật chất
tăng gấp nhiều lần so với kế hoạch ban đầu.
Ngoài gạo, thịt, thực phẩm tươi, hậu cần các cấp còn chế biến các
loại thực phẩm khô, muối thịt, muối dưa... gửi lên mặt trận. Trong quá
trình chiến đấu, các đơn vị cũng tổ chức tăng dự trữ lương thực thực
phẩm, tăng gia sản xuất và khai thác tại chỗ, củng cố hầm ngủ nghỉ, tạo
điều kiện tốt nhất, bảo đảm sức khỏe cho bộ đội trong điều kiện chiến
đấu khốc liệt và kéo dài,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “...Trên mặt trận Điện Biên Phủ,
vấn đề bảo đảm cung cấp lương thực, đạn dược là một nhân tố vô cùng quan
trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật, khó khăn về cung
cấp thực không kém khó khăn về tác chiến. Tình hình cung cấp khẩn trương
từng ngày, từng giờ, không kém tình hình chiến đấu”(1).
Ở tuyến sau, hậu cần ta đã có nhiều kinh nghiệm tổ chức, nhưng ở mặt
trận Điện Biên Phủ, việc đảm bảo cấp dưỡng đối diện rất nhiều khó khăn:
liên tục bị bom đạn bắn phá, quân số đông với nhiệm vụ, kế hoạch hoạt
động khác nhau, địa hình trải rộng và phức tạp, quân ta ngày càng tiến
sát quân địch… Thời gian đầu phần nhiều các đơn vị xây dựng trận địa
cũng như phòng ngự đều phải ăn cơm nguội, gói bánh chưng ăn qua bữa.
Nhưng trong các trận đánh công kiên, đánh trận địa, liên tục tác chiến
kéo dài hàng tháng trời, ta đặt mục tiêu phải giải quyết được vấn đề ăn
nóng uống nóng cho toàn quân.
Trong những điều kiện ngặt nghèo như thế, bếp Hoàng Cầm đã phát huy
tối đa hiệu quả. Nhưng muốn bếp đặt được ngay ở đại đội, ngay mặt trận,
các đơn vị tiếp tục có thêm nhiều sáng kiến. Anh em đào những hầm sâu,
vững chắc, biến “bếp Hoàng Cầm” thành “hầm Hoàng Cầm”, không khói, không
lộ ánh sáng, không nóng và chống được cả phi pháo, đưa các “anh nuôi”
theo sát bước chân chiến sỹ tuyến đầu. Nhờ đó, có khi cách địch chỉ 50m,
các chiến sỹ vẫn được ăn uống nóng đều đặn, có nước nóng để uống trong
mùa đông, các hầm quân y dã chiến cũng có nước nóng để sát trùng dụng
cụ...
Trong thực tiễn hành quân chiến đấu, Bếp Hoàng Cầm và hầm Hoàng Cầm
đã phát huy giá trị lớn, góp phần quan trọng giữ gìn sức khỏe, đảm bảo
quân số bộ đội. Trong khi quân địch ngày càng lún sâu vào hoảng loạn và
cô lập, việc đảm bảo đời sống trong quân đội đã góp phần củng cố tinh
thần và lòng tin của toàn quân ta, tăng thêm sức mạnh đưa chúng ta tới
chiến thắng cuối cùng.
Từ lòng yêu nước, từ tinh thần đồng đội của một anh nuôi, chiếc bếp
giản dị đã theo bước đoàn quân anh hùng, thầm lặng góp sức vào những
chiến công chói lọi của các anh trong một thời hoa lửa. Ngày nay, việc
dùng củi đốt đã không còn phổ biến, nhưng bếp Hoàng Cầm vẫn tiếp tục
được nghiên cứu cải tiến, hoàn thiện và đưa vào huấn luyện, sử dụng rộng
rãi. Bếp Hoàng Cầm không chỉ là một phát minh hiệu quả, mà còn thể hiện
được bản chất của quân đội ta: rất giản dị nhưng cũng rất anh hùng./.
THU HẠNH (TTXVN)
_______________________
(1) Bộ Quốc phòng - Tổng cục Hậu cần: Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, H,1992, t.1, tr. 292.