THÀNH QUẢ LÝ LUẬN QUAN TRỌNG
Quan niệm phát triển nền KTTT định hướng XHCN là “một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(1). Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo, v.v.. Thực tiễn 35 năm đổi mới đã chứng minh, phát huy vai trò chủ đạo của KTNN góp phần quan trọng thúc đẩy “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện”(2).
Không thừa nhận thành tựu trên, các thế lực thù địch phản động, cơ hội chính trị ra sức truyên truyền xuyên tạc vai trò chủ đạo của KTNN, nhằm phủ nhận bản chất của nền KTTT định hướng XHCN và coi đây là trọng điểm chống phá đường lối đổi mới kinh tế của Đảng nói chung và thành công của Đại hội XIII nói riêng. Núp bóng danh nghĩa “chuyên gia kinh tế”, “doanh nhân thành đạt”, “đại diện hợp pháp”… của cộng đồng doanh nghiệp, người dân và triệt để lợi dụng hạn chế, yếu kém của một số doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong sản xuất kinh doanh, chúng đưa ra những luận điệu, như: KTNN giữ vai trò chủ đạo sẽ thủ tiêu cạnh tranh, phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế khác; sự thể hiện vai trò chủ đạo của KTNN đối với nền kinh tế là mơ hồ, thiếu thực tế; cần giải thể các doanh nghiệp, tập đoàn KTNN vì sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí lớn, v.v.. Qua đó, tạo tâm lý hoài nghi, gây mất lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, cùng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc ta.
KTNN GIỮ VAI TRÒ CHỦ ĐẠO KHÔNG PHỦ ĐỊNH CẠNH TRANH
KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền KTTT định hướng XHCN không thủ tiêu cạnh tranh. Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường”(3), KTNN giữ vai trò chủ đạo không phủ định cạnh tranh mà còn là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Quá trình đổi mới, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu khách quan phải tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy luật KTTT trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các hiệp định tiêu chuẩn cao, như CPTPP, EVFTA(4), v.v.. Đồng thời, chúng ta đã ký, chờ phê chuẩn có hiệu lực hiệp định RCEP; đang tiến hành đàm phán 2 hiệp định với EFTA (Thụy Sĩ, Na uy, Iceland, Liechtenstein) và Israel(5). Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam năm 2019 đứng thứ 67/137 nền kinh tế, tăng 10 bậc so với năm 2018(6). Điều đó cho thấy, cộng đồng quốc tế công nhận độ mở và năng lực cạnh tranh của nền KTTT định hướng XHCN ngày càng cao.
Các doanh nghiệp, tập đoàn KTNN hoạt động chủ yếu trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân không muốn làm và không làm được, hoặc đóng vai trò dẫn dắt, khai phá những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế, như: quốc phòng, an ninh, năng lượng, sân bay, cảng biển, hạ tầng giao thông…; tham gia cung ứng các sản phẩm dịch vụ công ích nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ nguyên tắc thị trường, bình đẳng với các doanh nghiệp khác.
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương các DNNN phải “hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”(7). Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta không ưu ái DNNN và phân biệt đối xử với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch, chịu sự điều tiết của các quy luật KTTT và thể chế KTTT định hướng XHCN.
Trong quá trình cổ phần hóa, đổi mới sắp xếp lại hệ thống DNNN, Chính phủ chủ trương thoái vốn và nhường lại thị phần ở các lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có khả năng và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, như: Thương mại tiêu dùng, dịch vụ, du lịch, vận tải, v.v.. Tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm túc chủ trương “Xóa bỏ cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế…”(8) gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế KTTT. Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng, cùng phát triển; trong đó, kinh tế tư nhân được “… khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao”(9).
Các yếu tố trên đã tạo môi trường thuận lợi, động lực thúc đẩy sự phát triển vượt bậc về số lượng, quy mô, chất lượng của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, như: số lượng tư nhân đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh là 591.499 doanh nghiệp, chiếm tỉ lệ 96,9% trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh của cả nước; gấp nhiều lần so với số liệu tương ứng của DNNN là 2.260 doanh nghiệp và 0,4%(10). Đặc biệt, trong Quý I và tháng 4/2021 đã có 44.166 doanh nghiệp thành lập mới, 21.381 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; trong đó, doanh nghiệp quy mô vốn đầu tư trên 100 tỷ đồng là 465 doanh nghiệp, tăng 33,2% so với cùng kỳ năm 2020(11). Việc kinh tế tư nhân tham gia vào các lĩnh vực nền tảng của nền kinh tế, như: công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, xây dựng đường cao tốc, sân bay, cảng biển, năng lượng tái tạo, truyền tải điện, logistics… ngày càng khẳng định vai trò là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Trong đó, nhiều doanh nhiệp, tập đoàn đã khẳng định thương hiệu đối với thị trường trong nước và quốc tế, như: Vingroup, Thế giới di động, Hòa Phát, Vietjet, VP bank, v.v.. Đây là minh chứng không thể chối cãi về chủ trương kiến tạo, xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong nền KTTT định hướng XHCN của Đảng và Nhà nước ta.
KTNN NGÀY CÀNG ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH VÀ PHÁT HUY
Thực tế đã chứng minh, vai trò chủ đạo của KTNN ngày càng được khẳng định và phát huy; KTNN thực sự là công cụ, lực lượng vật chất để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của KTTT.
Số liệu khảo sát của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho thấy: các doanh nghiệp, tập đoàn KTNN nắm giữ tỉ trọng đa số hoặc có vị trí chi phối một số ngành, lĩnh vực nền tảng của nền kinh tế, như: 25% vốn điều lệ, 48% thị phần huy động vốn và 50% thị phần cho vay của toàn hệ thống tín dụng; 86% sản lượng điện phát vào mạng lưới, 97% sản lượng than sạch, 100% sản lượng dầu thô, 85% thị phần bán lẻ xăng dầu; 96,4% thị trường băng thông rộng(12), v.v. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, thì KTNN cũng chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng sản phẩm quốc nội Việt Nam với 27%, trong khi tỉ lệ của kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư ngước ngoài là 10% và 20%(13).
Trong điều kiện thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế - xã hội mọi quốc gia trên thế giới, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2016- 2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm(14).
Đặc biệt, năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của bão lũ, đại dịch Covid-19 nhưng với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ nên tăng trưởng GDP vẫn đạt 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới; quy mô GDP tăng khoảng 1,4 lần so với 2015, đạt trên 340 tỷ USD(14), tương đương với thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 3.500 USD. Các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội được duy trì ổn định, như: Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 18,6% năm 2011 xuống dưới 4% trong giai đoạn 2016-2020; tỉ giá, thị trường ngoại hối ổn định, cán cân thanh toán thặng dư (xuất siêu 5 năm liên tiếp); tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ gần 10% năm 2015 xuống dưới 3% năm 2020; tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 76% năm 2015 lên 90,7 dân số năm 2020…; nhiều công trình hạ tầng về giao thông, năng lượng, thủy lợi, đô thị, khu công nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục… được hoàn thiện, đưa vào khai thác, sử dụng tạo thêm năng lực cạnh tranh và diện mạo mới cho nền kinh tế(15).
Đồng thời, KTNN là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng trong bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội… tạo cơ sở nền tảng vững chắc để Việt Nam thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
KHẲNG ĐỊNH VỊ TRÍ ĐẦU TẦU VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
Hiện nay, đa số doanh nghiệp, tập đoàn KTNN khẳng định vị trí đầu tàu về hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy tốt vai trò là công cụ, lực lượng vật chất để Chính phủ điều tiết nền kinh tế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội.
Số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố năm 2020 cho thấy: hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN đạt tỉ lệ cao hơn nhiều so với doanh nghiệp ngoài nhà nước, cụ thể: 78,5% có lãi, 2,2 hòa vốn và 19,3% thua lỗ; của doanh nghiệp ngoài nhà nước tương ứng là 43,7%, 7,7% và 48,6%(16). Tuy chỉ chiếm 0,4% trong tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng DNNN huy động, thu hút vốn cho sản xuất kinh doanh đạt 9,65 triệu tỉ đồng, có doanh thu thuần cao nhất với 13,41 triệu tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 323,64 nghìn tỉ đồng (chiếm tỉ lệ tương ứng là 24,8%, 56,7% và 36,1% của toàn bộ doanh nghiệp). Trong khi đó, doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 96,9% tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng chỉ thu hút được 22,25 triệu tỉ đồng vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh thu đạt 3,41 triệu tỉ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 190,36 nghìn tỉ đồng (chiếm tỉ lệ tương ứng là 57,2%, 14,4% và 21,3%); thu nhập bình quân tháng một lao động của DNNN đạt 12,56 triệu đồng, còn doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ đạt 7,87 triệu đồng(17). Theo số liệu thống kê của Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report JSC. - VNR) công bố TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2020 thì có đến 7 DNNN thuộc nhóm 10 doanh nghiệp hàng đầu(18).
Để tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo của KTNN, Đảng, Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Thực hiện nhất quán chủ trương thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực và cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn tăng cường đối thoại giữa Chính phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương với cộng đồng doanh nghiệp để tập trung sửa đổi kịp thời những mâu thuẫn, chồng chéo, tháo gỡ các “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển kinh tế và doanh nghiệp.
Đồng thời, quyết liệt chỉ đạo quá trình đẩy nhanh, nâng cao hiệu quả các chương trình, đề án của Chính phủ về cổ phần hoá, cơ cấu lại, đổi mới DNNN gắn với nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tham nhũng, lãng phí; xây dựng hệ thống doanh nghiệp, tập đoàn KTNN trở thành những điểm sáng, mẫu mực về hiệu quả sản xuất kinh doanh, trách nhiệm cộng đồng. Qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN; khơi dậy khát vọng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân vào sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
Đại tá, TS Thái Doãn Tước
Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam
---------------------------------------------------
(1) (13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, số 21.589 ngày 17/5/2021.
(2) (3) (7) (9) (17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr.59, 128, 129, 130, 46, 50, 53, 54, 60.
(4) Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Báo cáo số 555/BC-CP, ngày 19/10/2020 về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến kế hoạch năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021-2025, H, 2020.
(5) https://trungtamwto.vn/thong-ke/12065-tong-hop-cac-fta-cua-viet-nam-tinh-den-thang-112018.
(6) https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/nang-cao-nang-luc-canh-tranh-quoc-gia-cua-viet-nam-truoc-yeu-cau-moi-329061.html
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2017, tr.103.
(10) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020, Nxb. Thống kê, H, 2020, tr. 39. (11)https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/Pages/ThongKeDangKy.aspx.
(12) Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: Đánh giá thực hiện vai trò kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội của giai đoạn 2011 - 2020; quan điểm, phương hướng giai đoạn 2021 - 2030, H, 2020.
(14) Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Báo cáo số 99/BC-CP, ngày 23/3/2021 về Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2016 - 2021của Chính phủ, tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá XIV, H, 2021.
(15) Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Báo cáo số 555/BC-CP, ngày19/10/2020 về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến kế hoạch năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021-2025, H, 2020.
(16) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020, Nxb. Thống kê, H, 2020, tr. 39.
(18) https://vnr500.com.vn (gồm: Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông quân đội, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngân hàng TMCP đầu tư và Phát triển Việt Nam).