Thứ Năm, 5/12/2024
Khoa giáo
Thứ Năm, 2/12/2021 8:39'(GMT+7)

Chính sách phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam - nhìn từ Nghị quyết 27 khóa X

Hội nghị toàn quốc “Đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng’’

Hội nghị toàn quốc “Đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng’’

THỰC TRẠNG

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Nghị quyết 27) xác định: “Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí”.

Nghị quyết 27 cũng xác định “Trong những năm trước mắt, hoàn thiện các cơ chế, chính sách đã ban hành, xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức; xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020”.

Qua hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 27, bên cạnh những kết quả, mục tiêu cơ bản đạt được như: xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới... vẫn còn những mục tiêu chưa đạt được. Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ đã nhận định: “nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế… Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực… Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế”.

Điểm rất đáng lưu ý là trong Nghị quyết 27 xác định mục tiêu “xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020”, tuy nhiên, đến tháng 5/2020, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng đại diện các bộ, ngành Trung ương mới có phiên họp đầu tiên của Ban soạn thảo, Tổ biên tập Đề án Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021-2030.

Nghị quyết 27 đã đưa ra ba quan điểm chỉ đạo trong xây dựng chính sách, đó là: 1) xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; 2) xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định; 3) tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho trí thức sáng tạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ba nguyên tắc này đã được quán triệt trong xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức thể hiện qua các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong số các quan điểm đã được định hình thì quan điểm “Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước” vẫn chưa được thể chế thành chính sách đối với nhân tài của đất nước qua các văn bản pháp luật. Tính từ Nghị quyết 27 năm 2008 đến nay chúng ta chưa ban hành được chiến lược phát triển đội ngũ trí thức và chính sách đối với nhân tài.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

Quy định pháp luật đối với đội ngũ trí thức thể hiện trên ba nhóm văn bản khác nhau: 1) các văn bản quy phạm pháp luật; 2) các văn bản chỉ đạo, điều hành; 3) các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể. Nội dung quy định thể hiện hai phương diện: 1) cơ chế, chính sách chung đối với cán bộ, công chức, viên chức trong đó có trí thức; 2) cơ chế, chính sách đặc thù đối với trí thức.

Các quy định pháp luật hiện hành đã thể chế hóa mục tiêu, quan điểm của Đảng, tạo lập khung pháp lý về chính sách đối với sự phát triển đội ngũ trí thức; cùng với những quy định chung, đã có những quy định đặc thù thể hiện quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ trí thức, theo đó một mặt động viên, khuyến khích đội ngũ trí thức lao động, sáng tạo, đồng thời khai thác, sử dụng hiệu quả hơn năng lực, trí tuệ của đội ngũ trí thức; các quy định hiện hành đã đảm bảo tính phù hợp với thực tiễn.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, các quy định hiện hành vẫn còn những hạn chế như: chậm trong việc thể chế hóa mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức, quan điểm trọng dụng trí thức là nhân tài của đất nước; một số văn bản còn mâu thuẫn, thiếu tính hệ thống giữa các lĩnh vực dẫn tới khó thực hiện; các chính sách hiện hành chưa đủ sức “hấp dẫn” đối với trí thức vì vậy tình trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực công sang khu vực tư, từ trong nước ra nước ngoài vẫn chưa được khắc phục hiệu quả; một số nội dung trong chính sách đãi ngộ vẫn mang tính bình quân, dàn trải; nhiều nội dung đã không còn theo kịp những yêu cầu mới của phát triển đất nước theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách phát triển đối với đội ngũ trí đã có những bước phát triển và đạt hiệu quả đáng kể. Trên cơ sở Nghị quyết 27 và các quy định của pháp luật, các bộ, cơ quan ngang bộ và nhiều địa phương đã ban hành chương trình hành động, thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; chất lượng đội ngũ trí thức đã được cải thiện nhiều hơn. Tuy nhiên, nhìn chung, việc triển khai thực hiện chính sách phát triển đội ngũ trí thức vẫn còn những hạn chế như: chậm trong việc triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp đã được xác định trong các đề án xây dựng đội ngũ trí thức; một số nhiệm vụ triển khai chưa đạt được mục tiêu đề ra; ở một số nơi chưa thật sự tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, chưa khai thác hết tiềm năng của đội ngũ trí thức; một số địa phương lúng túng trong cụ thể hóa các chính sách, pháp luật...

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ

Một là, thống nhất nhận thức trong xác định nội hàm của khái niệm đội ngũ trí thức.

Tại cuộc họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng Đề án Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021-2030 (tháng 5/2020), một trong những vướng mắc được đưa ra là nội hàm về khái niệm đội ngũ trí thức chưa được làm rõ và thống nhất. Theo đó, khi xác định được nội hàm của khái niệm “đội ngũ trí thức” mới xác định được đội ngũ trí thức là những ai, số lượng, chất lượng trình độ ra sao? Khi có những thống kê về số lượng mới đưa ra được giải pháp đúng, trúng và khả thi để thực hiện trong chiến lược phát triển.

Trên cơ sở Nghị quyết 27, chúng tôi xin nhấn mạnh thêm một số ý liên quan đến nội hàm khái niệm “đội ngũ trí thức” như sau: Thứ nhất, đội ngũ trí thức không phải là tập hợp đơn thuần các trí thức, mà là tập hợp có tổ chức với những hình thức phù hợp, các thành viên trong đội ngũ gắn kết với nhau trên cơ sở đặc điểm lao động, cùng hướng tới mục đính lớn lao và cao là: truyền bá nhận thức, không ngừng làm giàu tri thức nhân loại. Thứ hai, đối với trình độ học vấn về lĩnh vực chuyên môn, nên giới hạn từ đại học trở lên theo kinh nghiệm của một số nước, phù hợp với thực tế nước ta hiện nay và xu hướng phát triển trong tương lai. Thứ ba, phạm vi nên tập trung vào các nhóm trí thức trong các lĩnh vực chủ yếu: 1) Trí thức trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ, trong các doanh nghiệp thuộc ngành kinh tế, trong giáo dục và đào tạo và y tế; 2) Trí thức trong lĩnh vực văn học nghệ thuật; 3) Trí thức trong các cơ quan Đảng và cơ quan quản lý nhà nước; 4) Trí thức trong lực lượng vũ trang; 5) Trí thức trong các hội; 6) Trí thức trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; 7) Trí thức lớn tuổi, nhất là số đã nghỉ hưu; 8) Sinh viên ở trong nước và lưu học sinh ở nước ngoài.

Hai là, về mục tiêu chính sách.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định các mốc thời điểm - mục tiêu cụ thể: đến năm 2025, 2030 và đặc biệt là “Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Để đạt được các mốc mục tiêu mà Đại hội XIII đề ra, yếu tố quyết định vẫn là xây dựng và phát huy được nguồn lực con người Việt Nam, làm cho mọi công dân được phát triển tự do, toàn diện, kết tinh được các giá trị văn hóa truyền thống quý báu, có đạo đức trong sáng, có lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại, được đào tạo, trang bị tri thức, kỹ năng sống, năng lực lao động sáng tạo, tư duy đổi mới, phát huy được tối đa trí tuệ, tài năng, khát vọng phát triển trong cuộc sống và lao động sáng tạo(1). Với nhận thức như vậy, việc xác định mục tiêu phát triển đội ngũ trí thức cần đặt trong mô hình tổng thể về mục tiêu phát triển nguồn nhân lực Việt Nam (xem hình)

Ba là, quan điểm, nguyên tắc.

Nghị quyết 27 đã đưa ra ba quan điểm, Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức đã đưa ra các nguyên tắc trong quản lý cán bộ, công chức, viên chức. Từ thực tế xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức cho thấy tính đúng đắng, tính thời đại của những quan điểm, nguyên tắc đã được Đảng và Nhà nước xác định. Vì vậy cần quán triệt sâu sắc hơn nữa các quan điểm, nguyên tắc này trong phát triển đội ngũ trí thức theo mục tiêu đã được Đại hội XIII của Đảng xác định.

Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII của Đảng, cần nghiên cứu bổ sung thêm một số quan điểm mới như: 1) Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc của đội ngũ trí thức; 2) Gắn kết giữa phát triển đội ngũ trí thức, thu hút, trọng dụng nhân tài làm việc trong các cơ quan nhà nước với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, với tinh giản biên chế, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham quan trưng bày các sản phẩm khoa học, kỹ thuật.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham quan trưng bày các sản phẩm khoa học, kỹ thuật.

Bốn là, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật.

Tiếp tục rà soát, sửa đổi các quy định nhằm khắc phục hiệu quả tình trạng “chảy máu chất xám”, “lãng phí chất xám”, dàn trải, bình quân trong chính sách đối với đội ngũ trí thức.

Lý luận và thực tiễn cho thấy vai trò, ý nghĩa của trí thức là lãnh đạo, quản lý thể hiện trên các phương diện như: thủ lĩnh, định hướng chiến lược, truyền cảm hứng và tập hợp sức mạnh, hỗ trợ nhân viên kịp thời, khai tâm (tạo sự thay đổi theo hướng tích cực với các yếu tố mới từ tầm nhìn đến phương thức thực hiện), tối ưu các quyết định quản lý, điều hòa các mối quan hệ. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ "… ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt". Đây là điểm mới, điểm mấu chốt trong giai đoạn phát triển mới hiện nay, giai đoạn cần những người lãnh đạo, người đứng đầu có phẩm chất, năng lực quản trị tốt nhằm góp phần đưa đất nước phát triển. Theo đó, thời gian tới cơ quan chức năng của Chính phủ cần nghiên cứu đề xuất xây dựng Đề án phát triển nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực then chốt.

Như đã đánh giá, việc thể chế hóa mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức, quan điểm trọng dụng trí thức là nhân tài của đất nước diễn ra quá chậm. Vì vậy trong thời gian tới cần khẩn trương trình Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện “Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021-2030” và “Chiến lượng quốc gia thu hút, trọng dụng nhân tài”.

Năm là, xác định khâu đột phá trong chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng người có tài năng.

Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Nhận thức rõ giá trị truyền thống coi trọng hiền tài và thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, ý nghĩa của nhân tài trong sự nghiệp phát triển đất nước, từ Nghị quyết Trung ương 3 Khóa VIII đến Nghị quyết Trung ương 7 Khóa XII, Đảng ta đều đặt ra mục tiêu trong xây dựng chiến lược nhân tài quốc gia. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định “có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài”. Từ đó cho thấy trong chính sách phát triển đội ngũ trí thức thì chính sách đối với người có tài năng là khâu đột phát.

Nhân tài là người có tài năng theo giới tính, lứa tuổi, lĩnh vực; có phẩm chất đạo đức; được khẳng định qua kết quả thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao theo đó phản ánh trình độ, năng lực và sức sáng tạo vượt trội; có niềm tin, khát vọng nghề nghiệp, cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển cơ quan, đơn vị và xã hội tại thời điểm xác định và cả trong tương lai. Nhân tài là bộ phận “hạt nhân” của đội ngũ trí thức, là lực lượng nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài phát triển theo lứa tuổi, theo lĩnh vực, với cấp độ cụ thể trong và ngoài cơ quan nhà nước.

Chính sách nhân tài cần định hướng theo phương châm “Kết nối với nhân tài của ngày mai từ những người có triển vọng tài năng của ngày hôm nay” và “Năm tốt” là Đánh giá tốt - Đãi ngộ tốt - Cơ hội thăng tiến tốt - Môi trường làm việc tốt - Để sáng tạo tốt. Thu hút, trọng dụng nhân tài vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài. Vì vậy cần thống nhất nhận thức, chủ trương và thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng đối với nhân tài nhưng có trọng tâm, trọng điểm để đạt được mục tiêu, hiệu quả, bền vững./.

TS. Tạ Ngọc Hải
Bộ Nội vụ 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất