Không phải chỉ những kẻ chống đối, cố tình khoét sâu vào điểm yếu tham nhũng, mà không ít cán bộ, đảng viên vẫn còn hoài nghi tính hiệu lực, hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay. Là một trong những đội quân xung kích bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, những người làm công tác tư tưởng, lý luận đã rất tích cực trong việc tuyên truyền, làm rõ quan điểm của Đảng đối với tham nhũng và những thành tựu trong thực tế đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Nhưng để cuộc đấu tranh này có hiệu quả, cần có những lập luận không những vững về khoa học, mà cần có sức thuyết phục từ sự cầu thị, nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận sự thật, để đề xuất các giải pháp thực tiễn, khả thi của người làm công tác tư tưởng, lý luận. Điều cần phải thừa nhận là, nếu không có tiến bộ trong thực tế đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thì dù rất cố gắng, việc đấu tranh tư tưởng của đội ngũ những người làm lý luận, tuyên truyền với những thế lực chống đối, những người có quan điểm sai trái sẽ chỉ có kết quả rất hạn chế.
Điều này có thể khẳng định từ một số luận điểm:
1. Không phải vì một đảng mà nảy sinh tham nhũng, cũng không phải chỉ có đa đảng mới có thể diệt trừ được tham nhũng.
Thực tiễn nhiều quốc gia trên thế giới đã chứng minh đa đảng vẫn có thể nảy sinh tham nhũng, vẫn có thể khó khăn đấu tranh, ngăn chặn tham nhũng. Bằng chứng là nhiều nước đa đảng, thường xuyên được xếp hàng đầu thế giới về chống tham nhũng thì cũng chưa nước nào đạt được 90 trên 100 điểm tuyệt đối theo thang điểm của Tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International viết tắt là TI). Ví dụ, năm 2017, Niu Dilân xếp thứ nhất đạt 89 điểm; Đan Mạch xếp thứ hai đạt 88 điểm; Phần Lan thứ ba, Na Uy thứ tư, Thụy Sĩ thứ năm cùng 85 điểm; Thụy Điển thứ sáu với 84 điểm; Canada thứ bảy với 82 điểm; Luxembourg thứ tám với 82 điểm; Hà Lan thứ chín với 82 điểm; Anh thứ mười cùng 82 điểm; Đức thứ mười một với 81 điểm... Như vậy là tham nhũng vẫn hiện diện ở ngay những nước đa đảng vốn được phương Tây tự coi là dân chủ và trong sạch nhất.
Vậy đâu là những nhân tố quan trọng nhất tạo điều kiện nảy sinh và phát triển tham nhũng? Theo tổng kết của các nhà nghiên cứu và các tổ chức chống tham nhũng quốc tế, đó là: Hệ thống chính trị và hành chính thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực, tạo điều kiện cho người có chức vụ, quyền hạn có thể thu lợi bất chính mà không bị ngăn chặn từ bên trong; Thể chế thiếu minh bạch, dân chủ, tạo ra nhiều “vùng tối” khiến người dân khó giám sát và tố cáo hành vi tham nhũng; Chính sách đãi ngộ không đủ bảo đảm mức sống xứng đáng, nhất là trong môi trường kinh tế thị trường, khiến cho người có chức vụ quyền hạn phải tham nhũng như hành vi bất đắc dĩ; Hệ thống pháp luật thiếu nghiêm minh, khiến cho người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi tham nhũng mà không sợ bị trừng phạt; Văn hóa chính trị và công vụ thiếu chú trọng danh dự, liêm sỉ, thiếu đề cao sự trung thực khiến cho kẻ có chức, có quyền không sợ mất danh dự khi tham nhũng; Hệ thống báo chí, truyền thông thiếu dũng khí, không trở thành công cụ hữu hiệu để giám sát, tố cáo hành vi tham nhũng và gây áp lực với đấu tranh chống tham nhũng.
Bất cứ ở đâu, dù là một đảng hay đa đảng, song còn những nhân tố như trên thì đều có thể là mảnh đất nuôi dưỡng tham nhũng, gây khó khăn trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Nói cách khác, chống tham nhũng là “thuốc thử” cho phẩm chất và năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền. Điều này càng đúng đối với Đảng Cộng sản.
Thực tiễn của nhiều nước chuyển đổi từ một đảng lãnh đạo tới đa đảng cạnh tranh tự do cho thấy, nếu chưa thiết lập được thể chế kinh tế thị trường vững vàng, thể chế pháp lý chặt chẽ, nền công vụ có kỷ luật thì quá trình chuyển đổi đó càng tạo điều kiện cho tham nhũng nảy nở, phát triển mạnh mẽ, thậm chí thành đại dịch của đất nước (nước Nga đã từng mất hàng chục năm như vậy và hiện nay vẫn còn bị xếp vào nhóm dưới của bảng xếp hạng tham nhũng với thứ hạng 135/180 với 29/100 điểm, thấp hơn khá nhiều so với Việt Nam).
Nhìn lại thể chế chính trị và văn hóa của nước ta trong những thập niên vừa qua, nhất là từ khi thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phải thẳng thắn thừa nhận có nhiều khiếm khuyết tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển, mặc dù điều này đi trái bản chất của Đảng và Nhà nước ta. Trước hết, chúng ta chưa có kinh nghiệm trong việc thiết kế, xây dựng các thể chế pháp lý cho kinh tế thị trường, trong quản lý các dự án, chương trình phát triển của nhà nước; xây dựng các cơ chế, giải pháp phòng ngừa và chống tham nhũng.
Chúng ta cũng chưa quyết liệt trong đổi mới tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Đặc biệt chế độ tiền lương của cán bộ, công chức vẫn còn bị kìm hãm bởi tư duy cũ về công bằng, bình đằng trong phân phối, hưởng thụ, khiến cho tham nhũng trở thành “nguồn sống” đối với không ít cán bộ, công chức.
Từ khi thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều dự án, chương trình, kế hoạch được triển khai nhưng thiếu cơ chế quản lý giám sát ngay từ đầu đã tạo cơ hội cho tham nhũng. Các khoản hoa hồng, chia chác, gửi giá... gần như đã thành thông lệ giữa các bên A, B. Việc đấu thầu công khai đã trở thành bình phong của sự sắp đặt, sau đó có ăn chia giữa các bên. Có thể nói, tham nhũng dưới nhiều hình thức, nhiều mức độ đã trở thành thói quen của một bộ phận công chức thực hiện chính sách, dự án.
Vì những nguyên nhân chủ yếu đó, theo xếp hạng của Tổ chức minh bạch quốc tế, chỉ số cảm nhận tham nhũng (Coruption perceptions index - CPI) của Việt Nam trong nhiều năm luôn ở mức trung bình. Từ 2012 đến 2015 chỉ dừng ở mức 31/100 điểm. Nhờ có những nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong chống tham nhũng, năm 2016 CPI tăng được 2 điểm lên đến 33 và 2017 tăng lên đến 35 điểm, xếp thứ 107 trên tổng số 180 quốc gia, vùng lãnh thổ. Điều đó cho thấy, yếu tố quyết định để đánh giá tình trạng tham nhũng chính là sự quyết tâm và biện pháp có hiệu quả của Đảng và Nhà nước, cụ thể là của người đứng đầu nhà nước. Nếu không có điều này thì dù có thể chế dân chủ hoàn thiện đến mấy cũng không thể triệt tiêu được tham nhũng.
Từ yêu cầu của thời đại và phát triển đất nước, đã đến lúc phải nhận thức rõ hơn về ý nghĩa của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đối với vận mệnh của Đảng ta và hơn thế là với vận mệnh, sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang định hướng xây dựng.
2. Trong thể chế một đảng cộng sản cầm quyền, có thể đấu tranh phòng, chống tham nhũng có kết quả, cần phải có quyết tâm triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt.
Trong điều kiện một đảng cầm quyền, có thể tham nhũng sẽ giảm xuống, thậm chí bị hạn chế tối đa nếu đảng khắc phục được những nhân tố trên. Thực tiễn đấu tranh quyết liệt với tham nhũng ở Trung Quốc trong những năm gần đây dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã đưa Trung Quốc vào nhóm xếp hạng tương đối cao về chống tham nhũng.
Những nỗ lực chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua, với việc đưa ra truy tố, xét xử những cán bộ cao cấp liên quan tới các vụ việc tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã được quần chúng và đông đảo cán bộ vui mừng, tin tưởng và ủng hộ, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá tích cực.
Người dân hiểu rõ, với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của mình, trong Đảng Cộng sản Việt Nam có thể có những quan điểm, ý kiến khác nhau giữa các cá nhân, thậm chí giữa một số đảng viên này với một số đảng viên kia, nhưng chưa bao giờ và không bao giờ được phép tồn tại các phe phái. Do đó, đấu tranh chống tham nhũng, có thể động chạm đến bất cứ ai, nhưng không phải là đấu tranh phe phái như thường thấy ở nhiều đảng chính trị khác.
Hơn thế, cuộc đấu tranh chống tham nhũng đang diễn ra có kết quả chứng tỏ rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ năng lực lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Điều đó cho thấy, dù ở Việt Nam chỉ một đảng lãnh đạo, thì không những có thể mà còn có nhiều thuận lợi trong đấu tranh chống tham nhũng. Thuận lợi đó trước hết bắt nguồn từ bản chất vì dân, vì nước của một Đảng Cộng sản trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, được Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện; vì có được sự yêu mến, tin tưởng, ủng hộ của nhân dân với Đảng; từ nguyên tắc tổ chức thống nhất, đoàn kết của Đảng. Vấn đề đặt ra là khơi nguồn và phát huy những nhân tố thuận lợi trên như thế nào. Những khuyến cáo của tổ chức Minh bạch thế giới với mọi quốc gia nói chung, với Việt Nam nói riêng là đúng đắn, dựa trên những nghiên cứu khoa học, khách quan. Ở đây, xin nhấn mạnh thêm một số khẳng định:
Điều đầu tiên, phải thừa nhận ở Việt Nam cũng như các nước khác, tham nhũng có thể nảy sinh trong đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp, các ngành, trong các cơ quan Nhà nước và Đảng. Dù mang bản chất vì dân, vì nước, nhưng không phải đảng cộng sản có thể miễn trừ với tham nhũng, nhất là trong phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Do đó, phòng ngừa và chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, với chế độ. Hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa và chống tham nhũng cần luôn cập nhật với thực tiễn phát triển của đất nước, tiếp cận chuẩn mực quốc tế.
Thứ hai, phải coi phòng ngừa và chống tham nhũng là một trong các mục tiêu của mọi chiến lược, kế hoạch phát triển của đất nước. Nói cách khác, phải gắn mục tiêu phòng ngừa và chống tham nhũng với mục tiêu phát triển; gắn cơ chế, giải pháp phòng ngừa, chống tham nhũng vào cơ chế, giải pháp thi hành chính sách, pháp luật. Hiện nay, điều này chưa được quán triệt, nên còn nhiều khe hở tạo điều kiện cho những người có chức, có quyền, kể cả doanh nghiệp lợi dụng thực hiện hành vi tham nhũng.
Phát triển Chính phủ điện tử là một giải pháp hữu hiệu cần phải được thúc đẩy. Thực tiễn cho thấy, các quốc gia có trình độ phát triển Chính phủ điện tử cao thì cũng là các quốc gia có môi trường kinh doanh tốt và mức độ tham nhũng thấp (ví dụ các nước Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Anh, Singapore, Canada….). Trong những năm 2016, 2017, khi Việt Nam cải thiện được Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (trong đó có chỉ số về Dịch vụ công trực tuyến) thì không những nâng cao được chỉ số môi trường kinh doanh (năm 2018 tăng 14 bậc); đồng thời, cũng nâng cao được điểm chống tham nhũng (tăng 4 điểm so với 2012-2015).
Cần phải coi cải cách chế độ tiền lương theo hướng công bằng thực chất, không phải là cào bằng, là bình quân chủ nghĩa là một giải pháp quan trọng, tạo động lực của đội ngũ cán bộ công chức trong khu vực công tận tụy, có trách nhiệm và đạo đức công vụ, tránh xa các hành vi tham nhũng.
Thứ ba, cần có quyết tâm cao của toàn Đảng, nhất là cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng. Để có được điều này, đòi hỏi Đảng phải lựa chọn được những người lãnh đạo xứng đáng đủ năng lực lãnh đạo và phẩm chất đạo đức trong sáng, có quyết tâm cao chống tham nhũng./.
PGS.TS. Vũ Hoàng Công